Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
&&&
Vô 1 .
Vô Tuyệt Đối :
Cũng cần phân biệt 2 nghĩa khác nhau khi Lão Tử dùng đến chữ Vô ( là Không ) .Có 1 cái Vô tuyệt đối và 1 cái Vô tương đối , hay đối đãi .
Chương 14 có câu :” Thị chi bất kiến , danh viết Di . Thính chi bất văn , danh viết Hi . Bác chi bất đắc, danh viết Vi . Thử tam giả bất khả trí cật , cố hỗn nhi vi Nhất . Kì thượng bất kiểu , kì hạ bất muội , thằng thằng bất khả danh , phục qui ư vô vật . Thị vị vô trạng chi trạng , vô vật chi tượng , thị vị hốt hoảng . Nghinh chi bất kiến kì thủ , tùy chi bất kiến kì hậu “
( Xem mà không thấy nên gọi là Di . Lóng mà không nghe , nên gọi là Hi . Bắt mà không nắm được , nên gọi là Vi . Ba cái ấy không thể phân ra được , vì nó hỗn hợp làm Một . Trên nó không sáng , dưới nó không tối , dài dằng dặc mà không có tên , rồi lại trở về chỗ không có . Ấy gọi là cái hình trạng không hình trạng . Cái hình trạng của cái không có vật . Ấy gọi là hốt hoảng , đón nó thì không thấy đầu , theo nó thì không thấy đuôi . )
3 chữ Di , Hi ,Vi để miêu tả sự vô đắc , vô thanh , vô hình của Đạo.
Đó là cái Vô không có đối đãi . Vì không có đối đãi nên mới nói “ không thể thấy , không thể nghe , không thể nắm , không thể kêu tên “.
Tuy vậy , cứu cánh của nó , đâu phải là thật không , cho nên mới nói : ” vô trạng chi trạng ,vô tượng chi vật “ . Nếu quả thật nó là không , 1 cái không tuyệt đối , thì sao gọi là có hình trạng , có hình tượng ? Và chỉ vì nó không phải là thật không , nên Nó mới có thể sanh ra cái Có trên thế gian này :” Thiên hạ vạn vật sanh ư Hữu , Hữu sanh ư Vô “ .
Nhược bằng nó thật là Chân Vô thì nó làm sao sanh ra Vạn Vật ? Những chữ Di , Hi , Vi đều đâu phải muốn nói hoàn toàn Vô Sắc , Vô Thinh , Vô Hình , nhưng vì nhìn mà không thấy , lóng mà không nghe , rờ mà không đụng nên tạm gọi là Vô Vật mà thôi vậy .
Những câu nói trên giống như là câu :” Đại phương vô ngung , đại tượng vô hình “ ( vuông lớn không thấy góc , tượng lớn không thấy hình ) . Đó đều là cái Vô không đối đãi . Văn nghĩa của những câu này rất giống nhau .
&&&
Vô Đối Đãi :
Chương 2 có câu :” Cố Hữu Vô tương sinh , Nan Dị tương thành , Trường Đoản tương hình , Cao Hạ tương khuynh , Âm Thinh tương hòa , Tiền Hậu tương tùy “
( Có với Không cùng sanh , Khó và Dễ cùng thành , Ngắn và Dài cùng sánh , Cao và Thấp cùng chiều , Giọng và Tiếng cùng họa , Trước và Sau cùng theo ) .
Chương 11 nói :” Tam thập phúc , cộng nhất cốc , đương kì vô , hữu xa chi dụng . ..Cố , Hữu chi dĩ vi lợi , Vô chi dĩ vi dụng “.
( ba chục căm hợp 1 bấu , nhưng nhờ chỗ không , mới có chỗ dùng của xe ... Bởi vậy , lấy cái Có để làm cái lợi , lại lấy cái Không đó để làm cái dụng ).
Chữ Vô dùng trên đây là cái Vô đối đãi với 1 cái Có , tức là chữ Vô mà người của chúng ta thường dùng . Trong sách Lão Tử chữ Vô dùng theo nghĩa ấy ( nghĩa đối đãi ) thật rất nhiều , không cần đơn cử ra đây làm gì .
Tóm lại , như khi dùng các chữ Đạo Đức , Lão Tử dùng chữ Vô cũng có 2 nghĩa . Một nghĩa tuyệt đối khi ông dùng chữ Vô để chỉ Đạo , cái đạo của Bản Thể như khi ông nói :” Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu , Hữu sinh ư Vô “ , nghĩa là thay vì nói : vạn vật sanh ư Đạo .
Ông nói Vạn Vật sanh ư Vô . Còn cái nghĩa tương đối của nó để dùng với cái Hữu đối đãi , tức là ông dùng theo lối thông thường . Vì Lão Tử thấy thế nhân hay tranh dành xu phụ theo cái Có đến thái quá , nên muốn lập lại quân bình , ông khuyên ta đứng vào chỗ Không . Hai câu chót ở chương 11 nói rất rõ :” Hữu chi dĩ vi lợi , Vô chi dĩ vi dụng “ .
Như vậy ta thấy rằng học thuyết của Lão Tử đâu phải cực đoan phản đối cái Hữu , bất quá vì người đời phần đông chỉ biết có cái lợi của cái Hữu mà đổ xô xu phụ . Nên mới đề xướng ra sự dùng đến trọng nhiệm của cái Không để cứu vớt sự chênh lệch nghiêng ngửa của Xã Hội .
Đó là cách bổ bất túc , tổn hữu dư , để giữ lại mức quân bình của Đạo mà thôi . Ta có thể nói rằng : dùng Cương hay Nhu , dùng cái Có hay cái Không , không phải luôn luôn nhất luật , mà phải tùy theo sự Bất Cập hay Thái Quá để mà ứng dụng cho được thích ứng . Cũng như ông cực lực phản đối sự dùng đến Bạo Lực , nhưng ông còn nói hờ : ” Nếu bất đắc dĩ mà phải dùng đến Bạo Lực , thì nên bình tĩnh điềm đạm “.
Cái công dụng của cái Vô trong 1 Xã Hội náo loạn gần như đến cực điểm của thời Xuân Thu Chiến Quốc , dĩ nhiên phải có bậc thức giả đề xướng nó ra để giữ quân bình . Nhưng thiên hạ bất cứ đời nào cũng thiên về cái đạo Hữu Vi , nên đem cái Đạo Vô Vi mà đề xướng ra bất cứ ở thời điểm nào , vẫn cũng là cần thiết cả.
Cho nên ta thường nghe nói cái vô dụng bao giờ cũng có chỗ đại dụng của nó , như về sau học thuyết của Trang Tử phần nhiều chứng minh “ cái dụng của vô dụng “ nơi Thiên Tiêu Diêu Du .
Vì không hiểu rõ công dụng của cái Vô mà người đời cho việc làm của Y Doãn là tích cực , lấy cái trong sạch của Bá Di làm tiêu cực , và cho rằng tiêu cực là vô dụng , ấy là điều lầm to vậy .
Trong lời nói phải chăng cái Ý là cái Vô của lời nói . Lời nói là cái Hữu , nhưng mà cái thực dụng của nó nơi cái Ý tức là cái Vô ... của nó . “ Ý tại ngôn ngoại “ ... Đó là chưa nói đến cái dụng của chữ Vô trong văn chương và nghệ thuật .
Như vậy , ta thấy chỗ mà triết học Lão Tử gọi là Hữu ,Vô , đều không giống với cái nghĩa 1 chiều theo nhị nguyên mà thiên hạ thường dùng : “ Vô là tuyệt đối không có gì cả “ . Đạo ẩn mà chưa lộ hình , đó gọi là Vô vậy .
&&&&&
Thứ Năm, 13 tháng 3, 2008
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét