Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2008

đạo 1

Lão Tử Tinh Hoa- Thu Giang Nguyễn Duy Cần

&&&

Đạo 1.

Về Bản Thể :
Trong các chương 1, 4 , 14 , 21 , 25 , 34 , 42 , 51 , 79 , Lão Tử ròng luận về Bản Thể của Đạo . Chỗ mà ông gọi là Đạo , tức là chỗ ông ám chỉ cái Nguồn Gốc của Vũ Trụ .

Nguồn Gốc của Vũ Trụ ( Đạo ) là 1 Lẽ Tuyệt Đối , không chi đối đãi với nó cả , vì vậy , không thể lấy 1 danh từ gì để chỉ định . Là vì , phàm cái gì có thể lấy lời nói mà định danh là đã sa vào chỗ đối đãi rồi . Như nói Đạo tức là đã mặc nhiên hàm cái ý có 1 cái Không Phải Đạo ẩn trong danh từ ấy , và như thế thì Đạo không còn là 1 lẽ Tuyệt Đối nữa .

Tuyệt đối là Độc Nhất Vô Nhị , cho nên dùng danh từ của giới nhị nguyên đối đãi mả gọi tên , là không thể được . Bởi vậy mới nói : ” Đạo khả Đạo , phi thường Đạo ; Danh khả Danh , phi thường Danh “( Đạo mà ta có thể gọi được , không còn phải là Đạo thường ; Danh mà ta có thể gọi được , không còn phải là Danh thường ) .

Thế thì , sở dĩ lại gọi nó là Đạo , là bất đắc dĩ gượng mà kêu tên đó thôi :” Ngô bất tri kì Danh , cưỡng tự chi viết Đạo , cưỡng vị chi Danh viết Đại “ ( Ta không biết tên , gượng gọi đó là Đạo , gượng cho đó là lớn ) .

&&&

Việc quan trọng nhất của Triết Học phải chăng , không có gì cần thiết hơn mà cũng không có gì khó khăn hơn là vấn đề giải thích Vũ Trụ ? Lấy Vũ Trụ làm căn nguyên cho tất cả Vạn vật thì học thuật mới có chỗ cứu cánh . Và trí thức loài người mới mong đầy đủ được .

Nếu lấy ngay hình hài và kiếp sống trăm năm là hạn của con người mà sánh với cái Vô Cùng Vô Tận của không gian và thời gian thì tuy thấy là có mà hình như không có gì cả . Cho nên , bàn về cách đo lường tinh xác Vũ Trụ đã đến đâu , và sự học thức của người để hiểu biết Vũ Trụ ấy đã tiến đến bực nào , thiết tưởng cũng không cần cho lắm . Là vì muốn giải quyết cứu cánh Vũ Trụ , rốt cuộc lại hình như không bao giờ có thể giải quyết được . Tại sao thế ?

Giả sử mà công việc giải thích ấy có thể được thì Vũ Trụ này sẽ là 1 Vật hữu tận , chứ không còn là vô tận nữa . Và ngoài cái Vũ trụ này ra cũng có thể còn có 1 Vũ Trụ khác , và cứ như thế mãi đến không cùng . Vậy thì cái Vũ Trụ vô cùng đó , đâu phải chỗ mà chúng ta có thể giải quyết được . Theo các nhà Thiên Văn ngày nay thì Thái Dương ỡ giữa trung bộ của Đại Vũ Trụ , cách trung tâm Đại Vũ Trụ ước mấy trăm trăm triệu lí , ngoài ra thì ngôi sao phân bố 4 phương như dầy dặc trên 1 cái vòng tròn .

Cái bề cao của nguyên khôi tinh tú ấy từ đầu này sang đầu kia , nếu tính theo sức mau lẹ của ánh sáng 186.000 anh lí trong 1 giây đồng hồ . Thì cũng phải đến 50.000 năm mới có thể đi tới đặng . Đó là cái Đại Vũ Trụ của loài người chúng ta ở ...Nhưng ngoài cái Vũ Trụ này há lại chẳng còn có cái Đại Vũ Trụ nào khác nữa hay sao ?

Nhà Thiên Văn lại cũng có nói :” Cái Vũ Trụ lớn mà loài người chúng ta ở đây là 1 vùng xoáy của tinh vân ; hình nó mỏng và bằng , bề mặt 2 bên nó lồi lên . Từ trung tâm thẳng đến bên cạnh thiên hà , có trên vạn vạn triệu lí . Từ trung tâm đến khoảng 2 trục ấy , lại chỉ có 1 phần 3 con số ấy mà thôi . Nếu cho rằng mỗi 1 đoàn tinh vân là 1 cái Đại Vũ Trụ độc lập , thì lớn hay nhỏ , nó sẽ giống nhau như Đại Vũ Trụ mà chúng ta đang ở . Mà cái số của đoàn tinh vân ấy có trên 10.000 ...

Nhưng mà đó cũng chỉ chẳng qua là ngày nay chúng ta mới thấy được bấy nhiêu mà thôi , và biết đâu sau náy , chỗ biết ấy lại không hơn bây giớ gấp trăm nghìn lần !

Vậy thì Vũ Trụ tức là Không Gian và Thời Gian há có thể là vấn đề có thể bàn đến được không , và ta có thể nào lấy lời nói mà hình dung được cái chỗ Vô Cùng Vô Tận của nó chăng ? Như vậy , đến ngày nay mà khoa học đã đến chỗ gần như cùng độ , thế mà đối với vấn đề Vũ Trụ , dường như cũng phải nhận là 1 vấn đề Bất Khả Tư Nghị và Hình Dung được.(Trần Trụ )

&&&

Trong thời đại Lão Tử , quan niệm về Vũ Trụ hãy còn hết sức là ấu trĩ , cho nên phần động con người khó tránh sa vào Thần Bí . Chỉ có 1 mình Lão Tử là không phải như thế . Mặc dù ông không có đủ khí cụ cùng phương tiện đo lường tinh xác như ngày nay ,ông vẫn cũng biết được 1 cách rất thâm sâu rằng :”Vũ Trụ không thể nào dùng tư tưởng mà suy nghĩ được , không thể nào dùng lời nói mà luận bàn được . Và vì thế ông cưỡng đặt cho nó tên là Đạo .

Ở chương thứ nhất sách Lão Tử Đạo Đức Kinh có nói :” Đạo mà có thể nói ra được , không còn phải là Đạo thường nữa ; Danh mà có thể nói ra được , không còn phải là Danh thường nữa “.

Trang Tử ở Thiên Trí Bắc Du giải câu nói trên đây của Lão Tử rất rõ ràng :

Đạo chẳng có thể nghe được ; nghe được , không còn phải là nó nữa . Đạochẳng có thể thấy được ; thấy được , không phải là nó nữa . Đạo chẳng có thể nói được ; nói được , không phải là nó nữa . Có thể nào lấy cái Trí mà hiểu được cái hình dung của cái không hình dung được chăng ? Vậy thì , không nên đặt tên cho Đạo “. Ông lại nói thêm :” kẻ hỏi Đạo cũng như kẻ đáp lại, đều là những người không hiểu Đạo cả ” , vì “ biết thì không nói , mà nói thì không biết “ .

Hàn Phi Tử ở Thiên Giải lão cũng có bàn rộng về cái nghĩa “ bất khả Đạo “ trên đây như sau đây :” Phàm cái Lí ấy , nếu đem ra mà phân chia thành ra vuông , tròn , dài , ngắn , xấu , đẹp , cứng , mềm ... thì cái Lí ấy đã bị hạn định rồi vậy ... Vật mà đã định rồi thì mới có còn mất , sống chết , thịnh suy . Ôi vật mà khi còn , khi mất , thoạt sống , thoạt chết , trước thịnh sau suy , thì không thể gọi là thường được ...Cho nên không thể gọi đó là Đạo được .

&&&







Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2008

đạo 2

Lão Tử Tinh Hoa- Thu Giang Nguyễn Duy Cần

&&&

Đạo 2.

Chương 67 Đạo Đức Kinh có câu :” Thiên hạ giai vị ngã Đạo đại tự bất tiếu . Phù duy đại , cố tự bất tiếu ; nhược tiếu cữu hĩ , kì tế dã phù ! “ ( Thiên hạ đều gọi Đạo ta là lớn mà dường như không giống chi cả . Bởi nó Lớn , nên Nó không giống chi cả . Nhược bằng Nó giống vật chi , thì Nó Nhỏ lâu rồi .)

Đạo mà nói ra đặng , mà có thể gọi tên đặng , là vì Nó có chỗ giống ( để mà so sánh ) .Có chỗ giống , mới có thể dùng lời nói mà hình dung , như vậy thì Đạo đã có chỗ cùng . Mà đã có chỗ cùng , thì sao có gọi là Lớn , Lớn 1 cách tuyệt đối .

Thật vậy , mỗi khi ta nói đến Lớn , thì óc ta liên tưởng đến 1 cái gì nhỏ hơn , nghĩa là lớn hơn cái nhỏ , nhỏ hơn cái lớn . Và như thế , thì trong đời không có cái gì thật lớn , cũng không có cái gì thật nhỏ .

Chương 15 sách Đạo Đức Kinh :

” Cổ chi thiện vi sĩ giả , vi diệu huyền thông , thâm bất khả thức . Phù duy bất khả thức , cố cưỡng chi vi dung “.

( Bậc toàn thiện xưa , tinh tế nhiệm mầu , siêu huyền thông suốt , sâu chẳng khả dò , bởi chẳng khả dò , tạm hình dung ) .

Nghiêm Phục nói :” Vật có hình khí thời không thể không đối đãi được . Cái mà chẳng thể đối đãi được , thời chẳng thể nào tư tưởng mà suy nghĩ , lấy lời nói mà nghị luận “. ( Hình khí chi vật , vô phi đối đãi , phi đối đãi tắc bất khả tư nghị ) .

Trở lên , là bàn về Bản Thể của Đạo .

Bản Thể của Đạo , tức là nguồn gốc của Vũ Trụ , nên mới nói :” Hữu vật hỗn thành , tiên Thiên Địa sinh . Tịch hề , liêu hề , độc lập bất cải , châu hành nhi bất đãi , khả dĩ vi thiên hạ mẫu “ ( Chương 25 : Có vật hỗn độn mà nên , sanh trước Trời Đất . Yên lặng , trống không . Đứng riêng mà không đổi , đi khắp mà không mỏi , có thể là Mẹ thiên hạ ) .

Gọi là Thiên Hạ Mẫu là muốn bảo : Đạo là nguồn gốc của Vũ Trụ . mẹ sinh ra vạn vật dưới trời , mà cũng là nguồn gốc của Vô Vi , của 1 cái Có tuyệt đối , 1 cái Lớn tuyệt đối mà không có đối đãi . Vì nó là 1 cái gì Lớn tuyệt đối nên mới nói : Nghinh chi nhi bất kiến kì thủ , tùy chi nhi bất kiến kì hậu . ( Đón nó thì không thấy đầu , theo nó thì không thấy đuôi ) .

Tức là Vô thủy vô chung vậy . Lại cũng vì Nó là 1 cái Có tuyệt đối , 1 cái gì Lớn tuyệt đối nên mắt xem không thể thấy , tai lóng không thể nghe , tay rờ không thể đụng , nên mới nói : “Thị chi nhi bất kiến , danh viết Di ; thính chi nhi bất văn , danh viết Hi ; bác chi bất đắc , danh viết Vi “ ( Chương 14 : Xem mà không thấy nên tên gọi là Di , Lóng mà không nghe nên tên gọi là Hi , bắt mà không nắm được , nên tên gọi là Vi )

Như vậy Đạo là 1 cái gì gần như không có vật gì cả , nên mới nói :” thằng thằng bất khả danh , phục qui ư vô vật , thị vị vô trạng chi trạng , vô vật chi tượng “ . ( Chương 14 : Dài dằng dặc mà không có tên , rồi lại trở về chỗ không có ; ấy gọi là hình trạng không hình trạng , cái hình trạng của cái không có vật ) .

Nhưng thực sự thì không phải vậy , bởi nó là Nguồn Gốc sanh ra Vạn Vật , thì bảo là không có gì cả sao đặng . Nên mới nói :” Đạo chi vi vật , duy hoảng duy hốt ; hốt hề hoảng hề , kì trung hữu tượng . Hoảng hề hốt hề , kì trung hữu vật . Yểu hề minh hề , kì trung hữu tinh “

( Chương 21 : Đạo sanh ra Vật , thấp thoáng mập mờ . Thấp thoáng mập mờ , trong đó có hình . Mập mờ thấp thoáng , trong đó có tinh ).

Vì Đạo là nguồn gốc của Vũ Trụ , hay nói 1 cách khác , Đạo là nguồn gốc của Vạn Vật , nên mới nói :” Đạo sanh Nhất , Nhất sanh Nhị , Nhị sanh Tam , Tam sanh Vạn Vật “ .( Chương 42 : Đạo sanh 1 , 1 sanh 2 , 2 sanh 3 , 3 sanh ra Vạn Vật ) .

Lại nói :” Đạo sanh chi , Đức súc chi , Vật hình chi , Thế thành chi “ ( Chương 51 : Đạo sanh đó , Đức nuôi đó , chủng loại tạo hình đó , hoàn cảnh kết liễu đó ) .

Bao nhiêu điều nói trên , đều là để bày giải cái lí sinh thành của Vạn Vật .

&&&

Đạo là nguồn gốc của Vạn Vật , là cái chỗ tự sinh của muôn loài mà không biết tại sao mà sinh ra . Nó là cái vật che chở và nuôi dưỡng vạn vật mà không tự cho mình là chủ muôn vật , và bởi thế mới có nói :” Vạn Vật thị chi , sinh nhi bất từ . Công thành bất danh hữu , y dưỡng vạn vật nhi bất vi chủ “ . ( Chương 34 : Vạn vật nhờ nó mà sinh ra , mà không 1 vật nào bị nó khước từ . Xong việc rồi , không để tên . Che chở , nuôi nấng muôn loài mà không làm chủ ) .

Lời nói này , chủ ý muốn nói Đạo sinh ra vạn vật , tuồng như không có làm gì cả mà kì thật , không có gì là không làm . ( Tự vô vi nhi thực vô bất vi dã ) .

Chỗ nguồn gốc phát xuất triết học chánh trị vô vi của Lão Tử là căn cứ nơi chỗ này vậy .

&&&&


Thứ Năm, 20 tháng 3, 2008

đạo 3

Lão Tử Tinh Hoa- Thu Giang Nguyễn Duy Cần

&&&

Đạo 3.

B) Về nhân sự :

Những Chương 8 , 9 , 14 , 15 , 16 , 18 , 23 , 25 , 30 , 31 , 32 , 37 , 38 , 41 , 46 , 47 , 48, 53 , 59 , 77 , 79 , 81 . Lão Tử bàn đến cái Đạo về Nhân Sự . Nhưng , thiết yếu nhất là Chương :” Nhân pháp Địa , Địa pháp Thiên , Thiên pháp Đạo , Đạo pháp tự nhiên “ ( Người bắt chước Đất , Đất bắt chước Trời , Trời bắt chước Đạo , Đạo bắt chước Tự Nhiên ) .

Bấy nhiêu lời nói ấy , đủ chỉ cho ta thấy rằng Lão Tử đối với vấn đề Nhân Sinh , chủ trương con người phải bắt chước theo Trời , bắt chước theo Đạo . Bởi vậy , ông thường khuyên ta :” Đạo thường Vô Vi , nhi vô bất Vi . Hầu Vương nhược năng thủ chi , vạn vật tương tự hóa “ .( Đạo thường không làm , nhưng không gì không làm . Bậc Hầu Vương giữ được nó , thì vạn vật sẽ tự thay đổi )

Câu “độc lập bất cải , châu hành bất đãi “ ( Đứng riêng mà không đổi , đi khắp mà không mỏi ) là muốn ám chỉ cái luật mâu thuẫn của Đạo . Đạo thì chí Tịnh , “bất cải “ mà cũng là chí Động “ bất đãi “ . Như khoa học Vật lí ngày nay đã chứng minh , ta thấy rằng trong cái chí tịnh của hột nguyên tử , mà giác quan ta không thể nhận thức khác hơn được , kì thực là 1 cái chí động ( động cùng cực ) .

Rộng lớn hơn , là quả địa cầu ta ở : cái chuyển của quả địa cầu thật là chí động , thế mà ta không dè là có động . Lớn hơn nữa là ngôi Thái Dương , chí tịnh đối với các hành tinh trong Thái Dương Hệ , mà chí động đối với các ngôi Thái Dương khác . Cho hay cái chí Động lại dường như cái chí Tịnh , cái “ không làm “ gì cả mà kì thực là “cái làm “ hiệu quả nhất .

Bản Thể của Đạo thì thấy là “không làm “ gì cả : chí tịnh . Mà kì thực không có gì là không do cái làm của nó mà ra : chí động . Do đó mới có cái hành động Vô Vi là” bất tranh “ , mà không có cái gì tranh được với nó , hay thắng được nó . Hành động Vô Vi , là hành động “ bất tranh nhi thiện thắng “ , ta phải bắt chước theo hành động ấy của Đạo mà “ hành “ cái Đạo ” không tranh “ .Ông lấy nước để ví với Đạo .

Thượng thiện nhược Thủy , thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh , xử chúng nhân chi sở ố . Cố cơ ư Đạo , Cư Thiện địa , tâm thiện uyên , dữ thiện nhân , ngôn thiện tín , chánh thiện trị , sự thiện năng , động thiện thời . Phù duy bất tranh , cố vô vưu “

( Ở bậc thượng thiện , giống như nước , nước thì ưa làm lợi cho vạn vật mà không tranh . Ở thì hay lựa chỗ thấp , lòng thì chịu chỗ thâm sâu , xử thế thì thích lòng nhân , nói ra thì trung thành không sai chạy , sửa trị thì chịu làm cho thái bình . Làm việc thì hợp với tài năng , cử động thì hợp với thời buổi . Ôi vì không làm nên không sao lầm lỗi ) .

Nhân nguyên tắc “ bất tranh nhi thiện thắng “ , mới có sanh ra những thuyết xử thế : công toại thân thoái , nhược úy tứ lân , và do đó nấy ra những điều răn mình như “ tự căng tự phạt “ ở chương 24 :” tự phạt giả vô công , tự căng giả bất trưởng ... ( tự xem là có công thì không công , tự kiêu căng thì không đứng đầu ... ) hay là “ bất dĩ binh cưỡng thiên hạ “ ( đừng dùng binh mà bức thiên hạ ) ...

Phải chăng đó đều là do cái nghĩa của 2 chữ “ bất tranh “ để giữ gìn cho thân mạng của mình được lâu dài ...mà nẩy sinh ra không ?

&&&

Tôn chỉ của Lão Tử , chỗ khấn yếu nhất là câu : ” thượng Đức bất Đức “ ở chương 38 .

Đoạn văn này cần phải để ý đến 2 chữ Thượng và Hạ .Thượng , là chỉ sự gần với Đạo . Hạ , là chỉ sự xa với Đạo . cái Đức của Đạo , không phải những đức tính như người đời thường nhận như Nhân , Nghĩa , Lễ ... nên mới nói :” thượng Đức bất Đức , thị dĩ hữu Đức , hạ Đức bất thất Đức , thị dĩ vô Đức “.( Đức mà cao là không có Đức , bởi vậy mới có Đức . Đức mà thấp , là có Đức , nên không có Đức ) .

Ta thấy rằng chỗ mà Lão Tử gọi là Đạo , bao giờ cũng có 2 nghĩa : cái Đạo của Bản Thể và cái Đạo của Nhân Sự . Chữ Đức cũng có 2 nghĩa :” cái Đức của Đạo và cái Đức của cái không phải Đạo như Nhân , Nghĩa , Lễ ... Và vì thế Lão Tử trọng Đạo Đức mà khinh Nhân , Nghĩa , Lễ ...

Khinh Nhân , Nghĩa ... không phải là bỏ Nhân , Nghĩa , mà thực ra là cho nó chưa đủ để thực hiện được cái Đạo nơi lòng mình . Còn nói đến Nhân Nghĩa ...là còn phân Nhĩ Ngã ... còn thấy có Người có Ta .
Đạo mà cao , hay nói 1 cách khác , người mà thực hiện được cái Đạo nơi mình rồi , không cần nói đến Nhân , đến Nghĩa , mà vẫn có Nhân có Nghĩa 1 cách hoàn toàn đầy đủ , không miễn cưỡng ... Không cần phải thi hành cái Đạo Nhân , Đạo Nghĩa mà tự nhiên được Nhân được Nghĩa là vì kẻ đã thực hiện được cái đạo nơi mình , không còn thấy có Người có Ta ... mà thấy Người là Ta , Ta là Người .

Cũng không còn thấy có Nội có Ngoại gì nữa mà cả thẩy đều là 1 . Còn nói đến Nhân Nghĩa Lễ la còn thấy có Ta có Người khác nhau . Lời nói này của Trần Trụ cũng đáng để cho ta để ý :” Lão Tử , vì muốn khôi phục cái Chánh Trị Đạo đức Đại Đồng , nên mới cho Nhân Nghĩa Lễ là chưa đủ ...

Nếu chưa rõ được chỗ Chánh Trị Đạo Đức Đại Đồng mà lại chê bướng Nhân Nghĩa Lễ ... đó là kẻ tội nhân của Lão Tử ... “

Hay nói 1 cách khác “ Đại đạo phế , hữu Nhân Nghĩa ...” . Đạo nơi ta đã mất rồi , ta mới nhận thấy có Người có Ta nên mới có bày ra Nhân Nghĩa để nối lại cái Sống Một đã bị chia lìa .

Còn thấy Nhĩ Ngã , Nội Ngoại là còn sống trong nhận định sai lầm của Tư Ngã của nhãn kiến Nhị Nguyên . Trang Tử , ở chương Thiên Vận giải thích vấn đề này có nói :”Thương Đại Tể là Đảng hỏi Trang Tử cái nghĩa của chữ Nhân . Trang Tử nói :” Ấy là đức của hổ lang “, Đảng hỏi :” sao vậy ?” Trang Tử nói :” Cha con nó thân nhau , sao gọi là bất nhân .”

Đảng hỏi :” Còn Chí Nhân thì sao ?” Trang Tử nói :” Chí Nhân không thân ai hết .” Đảng hỏi :” Tôi nghe nói không Thân thì không Thương , không Thương thì không Hiếu . Gọi người Chí Nhân là không có Hiếu được không ?” Trang Tử nói :” Không phải vậy , Chí Nhân cao lắm , Hiếu không đủ để nói đến “.

Như vậy , ta thấy kẻ mà khuyên ta “ thiện giả , ngô thiện chi , bất thiện giả , ngô diệc thiện chi ; tín giả , ngô tín chi , bất tín giả , ngô diệc tín chi “ lại bị người đời cho là Vô Luân Lí chẳng phải là oan lắm ru !

Đối với kẻ phải với ta , ta ở thành tín với họ , thì đó là lẽ thường rồi ! Nhưng , đối với kẻ ở quấy với ta , đối với kẻ bội phản ta , thế mà ta vẫn cứ một mực ở phải với họ , thành tính chung thủy với họ , thì có cần phải đem Nhân , Nghĩa , Lễ , Trí , Tín mà bàn với ta nữa không ? Ta là kẻ đã đứng trên loài người : Đạo Đức luân lí thông thường như Nhân Nghia Lễ Trí Tín đều là qua nhỏ bé đối với ta vậy !

Khác với Nho , Lão Tử khuyên ta “ dĩ Đức báo oán “ , và dùng chữ Từ để đối xử với tất cả mọi người , bất phân kẻ thiện ngưới ác , thì chữ Từ ấy phảng phất với chữ Bác Ái và Bát Nhã Bình đẳng của Nhà Phật . Những kẻ vịn lẽ Lão không phân Thiện Ác và cho ông chủ trương Vô Luân Lí là hiểu sai ! Phải nói rằng luân lí của Lão là 1 thứ siêu đẳng luân lí mới đúng hơn .

&&&&

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2008

đức

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
&&&

Đức .

Như trên đã nói , chỗ mà Lão Tử gọi bằng danh từ Đạo , bao giờ cũng dùng với 2 nghĩa :” cái Đạo của Bản Thể và cái Đạo của Nhân Sự . Chữ Đức cũng vậy , vẫn dùng với 2 nghĩa : cái Đức của Đạo , và cái Đức của cái không phải Đạo , tức là cái Đức của sự đã mất Đạo , như Nhân , Nghĩa , Li Trí , Tín ...


Đại Đạo phế , hữu Nhân Nghĩa . ( Đạo lớn mất , mới có sanh Nhân Nghĩa ) . Ông lại nói :”Thất đạo nhi hậu Đức , thất Đức nhi hậu Nhân , thất Nhân nhi hậu Nghĩa , thất Nghĩa nhi hậu Lễ ...Phù Lễ giả , trung tín chi bạc , nhi loạn chi thủ ...”( chương 38). ( Mất đạo rồi mới có Đức , mất Đức rồi mới có Nhân , mất Nhân rồi mới có Nghĩa , mất Nghĩa rồi mới có Lễ ...Lễ chỉ là cái vỏ mỏng che ngoài của lòng Trung Tín và là cái đầu mối của hỗn loạn ...) .

Lão Tử sở dĩ trọng Đạo Đức mà khinh Nhân Nghĩa Lễ ... là khinh cái Đức của sự đã mất Đạo . Mất đạo rồi mới có Đức , chữ Đức này là” nhân sự chi đức “ chứ không phải là cái Đức của Đạo .

Cũng như trong câu “ thượng Đức bất Đức “ thì chữ thượng Đức là ám chỉ cái Đức của Đạo , còn chữ “ bất Đức “ ám chỉ cái Đức của nhân sự , cái Đức của sự mất Đạo Đức .

Đức , thuộc về cái Đức của Bản Thể là để dùng ám chỉ cái Động hữu hình của Đạo , bắt nguồn nơi Đạo , tức là cái nguyên lí tối cao tối đại và tuyệt đối , nguồn gốc của vạn vật , luôn luôn “ thường tồn bất biến “ . Cái Đức của nó sanh ra Vạn Vật Trời Đất .

Trong những câu mà ông dùng đến chữ “thượng “ như trên đây đã nói ;” Thượng Đức bất Đức “ ...hoặc “ bất tranh chi Đạo , nhược xưng thượng Đức “ ; “kì Đức nãi chân “ , “thị vị bất tranh chi Đức “...

Đó là ông dùng chư Đức của Đạo , cái Đức của Vô Vi , của bất ngôn chi giáo , của bất tranh nhi thiện thắng , tức là cái Đức theo Đạo Trời , theo Đại Đạo , cái Đức của Bản Thể , duy cái nghĩa thì tùy chỗ dùng mà có sâu cạn khác nhau thôi .

Còn như khi ông bảo :” dĩ Đức báo oán “ , thì Đức đây là chỉ về nhân sự chi Đạo gần với những Đức Nhân , Nghĩa thông thường . Dù sao chữ Đức của Lão Tử dùng cũng cũng nặng về siêu hình hơn .

&&&

Huyền Đức : Chương thứ 10 có câu : ” sanh chi súc chi , sanh nhi bất hữu , vi nhi bất thị , trưởng nhi bất tể , thị vị Huyền Đức “ .( Sanh đó nuôi đó , sanh mà không chiếm cho mình , làm mà không cậy công , làm việc lớn mà không làm chủ , đó gọi là Huyền Đức ).

Huyền Đức là cái Đức Huyền của Đạo , Đạo thì không phân Thiện Ác , Thị Phi ,Vinh Nhục , nên đặt tên là Huyền nghĩa là hỗn độn , đen tối , sâu kín , hòa lẫn 1 màu , không thể phân biệt giữa cái Vô và cái Hữu , cái Nội và cái Ngoại , cái Tịnh và cái Động , cái Vô Danh và cái Hữu Danh :”Đồng vị chi Huyền “ .

Chữ Đức ở trên đây đều chỉ về cái đạo Bản Thể . Qua chương 65 , thì chữ Huyền Đức lại dùng để chỉ sự phải bắt chước theo cái Đạo Bản Thể để mà trị nước . Tức là bàn về cái Dụng của Huyền Đức.

&&&&

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2008

Vô 1

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
&&&

Vô 1 .
Vô Tuyệt Đối :

Cũng cần phân biệt 2 nghĩa khác nhau khi Lão Tử dùng đến chữ Vô ( là Không ) .Có 1 cái Vô tuyệt đối và 1 cái Vô tương đối , hay đối đãi .

Chương 14 có câu :” Thị chi bất kiến , danh viết Di . Thính chi bất văn , danh viết Hi . Bác chi bất đắc, danh viết Vi . Thử tam giả bất khả trí cật , cố hỗn nhi vi Nhất . Kì thượng bất kiểu , kì hạ bất muội , thằng thằng bất khả danh , phục qui ư vô vật . Thị vị vô trạng chi trạng , vô vật chi tượng , thị vị hốt hoảng . Nghinh chi bất kiến kì thủ , tùy chi bất kiến kì hậu “

( Xem mà không thấy nên gọi là Di . Lóng mà không nghe , nên gọi là Hi . Bắt mà không nắm được , nên gọi là Vi . Ba cái ấy không thể phân ra được , vì nó hỗn hợp làm Một . Trên nó không sáng , dưới nó không tối , dài dằng dặc mà không có tên , rồi lại trở về chỗ không có . Ấy gọi là cái hình trạng không hình trạng . Cái hình trạng của cái không có vật . Ấy gọi là hốt hoảng , đón nó thì không thấy đầu , theo nó thì không thấy đuôi . )

3 chữ Di , Hi ,Vi để miêu tả sự vô đắc , vô thanh , vô hình của Đạo.

Đó là cái Vô không có đối đãi . Vì không có đối đãi nên mới nói “ không thể thấy , không thể nghe , không thể nắm , không thể kêu tên “.

Tuy vậy , cứu cánh của nó , đâu phải là thật không , cho nên mới nói : ” vô trạng chi trạng ,vô tượng chi vật “ . Nếu quả thật nó là không , 1 cái không tuyệt đối , thì sao gọi là có hình trạng , có hình tượng ? Và chỉ vì nó không phải là thật không , nên Nó mới có thể sanh ra cái Có trên thế gian này :” Thiên hạ vạn vật sanh ư Hữu , Hữu sanh ư Vô “ .

Nhược bằng nó thật là Chân Vô thì nó làm sao sanh ra Vạn Vật ? Những chữ Di , Hi , Vi đều đâu phải muốn nói hoàn toàn Vô Sắc , Vô Thinh , Vô Hình , nhưng vì nhìn mà không thấy , lóng mà không nghe , rờ mà không đụng nên tạm gọi là Vô Vật mà thôi vậy .

Những câu nói trên giống như là câu :” Đại phương vô ngung , đại tượng vô hình “ ( vuông lớn không thấy góc , tượng lớn không thấy hình ) . Đó đều là cái Vô không đối đãi . Văn nghĩa của những câu này rất giống nhau .

&&&

Vô Đối Đãi :

Chương 2 có câu :” Cố Hữu Vô tương sinh , Nan Dị tương thành , Trường Đoản tương hình , Cao Hạ tương khuynh , Âm Thinh tương hòa , Tiền Hậu tương tùy “

( Có với Không cùng sanh , Khó và Dễ cùng thành , Ngắn và Dài cùng sánh , Cao và Thấp cùng chiều , Giọng và Tiếng cùng họa , Trước và Sau cùng theo ) .

Chương 11 nói :” Tam thập phúc , cộng nhất cốc , đương kì vô , hữu xa chi dụng . ..Cố , Hữu chi dĩ vi lợi , Vô chi dĩ vi dụng “.

( ba chục căm hợp 1 bấu , nhưng nhờ chỗ không , mới có chỗ dùng của xe ... Bởi vậy , lấy cái Có để làm cái lợi , lại lấy cái Không đó để làm cái dụng ).

Chữ Vô dùng trên đây là cái Vô đối đãi với 1 cái Có , tức là chữ Vô mà người của chúng ta thường dùng . Trong sách Lão Tử chữ Vô dùng theo nghĩa ấy ( nghĩa đối đãi ) thật rất nhiều , không cần đơn cử ra đây làm gì .

Tóm lại , như khi dùng các chữ Đạo Đức , Lão Tử dùng chữ Vô cũng có 2 nghĩa . Một nghĩa tuyệt đối khi ông dùng chữ Vô để chỉ Đạo , cái đạo của Bản Thể như khi ông nói :” Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu , Hữu sinh ư Vô “ , nghĩa là thay vì nói : vạn vật sanh ư Đạo .

Ông nói Vạn Vật sanh ư Vô . Còn cái nghĩa tương đối của nó để dùng với cái Hữu đối đãi , tức là ông dùng theo lối thông thường . Vì Lão Tử thấy thế nhân hay tranh dành xu phụ theo cái Có đến thái quá , nên muốn lập lại quân bình , ông khuyên ta đứng vào chỗ Không . Hai câu chót ở chương 11 nói rất rõ :” Hữu chi dĩ vi lợi , Vô chi dĩ vi dụng “ .

Như vậy ta thấy rằng học thuyết của Lão Tử đâu phải cực đoan phản đối cái Hữu , bất quá vì người đời phần đông chỉ biết có cái lợi của cái Hữu mà đổ xô xu phụ . Nên mới đề xướng ra sự dùng đến trọng nhiệm của cái Không để cứu vớt sự chênh lệch nghiêng ngửa của Xã Hội .

Đó là cách bổ bất túc , tổn hữu dư , để giữ lại mức quân bình của Đạo mà thôi . Ta có thể nói rằng : dùng Cương hay Nhu , dùng cái Có hay cái Không , không phải luôn luôn nhất luật , mà phải tùy theo sự Bất Cập hay Thái Quá để mà ứng dụng cho được thích ứng . Cũng như ông cực lực phản đối sự dùng đến Bạo Lực , nhưng ông còn nói hờ : ” Nếu bất đắc dĩ mà phải dùng đến Bạo Lực , thì nên bình tĩnh điềm đạm “.

Cái công dụng của cái Vô trong 1 Xã Hội náo loạn gần như đến cực điểm của thời Xuân Thu Chiến Quốc , dĩ nhiên phải có bậc thức giả đề xướng nó ra để giữ quân bình . Nhưng thiên hạ bất cứ đời nào cũng thiên về cái đạo Hữu Vi , nên đem cái Đạo Vô Vi mà đề xướng ra bất cứ ở thời điểm nào , vẫn cũng là cần thiết cả.

Cho nên ta thường nghe nói cái vô dụng bao giờ cũng có chỗ đại dụng của nó , như về sau học thuyết của Trang Tử phần nhiều chứng minh “ cái dụng của vô dụng “ nơi Thiên Tiêu Diêu Du .

Vì không hiểu rõ công dụng của cái Vô mà người đời cho việc làm của Y Doãn là tích cực , lấy cái trong sạch của Bá Di làm tiêu cực , và cho rằng tiêu cực là vô dụng , ấy là điều lầm to vậy .

Trong lời nói phải chăng cái Ý là cái Vô của lời nói . Lời nói là cái Hữu , nhưng mà cái thực dụng của nó nơi cái Ý tức là cái Vô ... của nó . “ Ý tại ngôn ngoại “ ... Đó là chưa nói đến cái dụng của chữ Vô trong văn chương và nghệ thuật .

Như vậy , ta thấy chỗ mà triết học Lão Tử gọi là Hữu ,Vô , đều không giống với cái nghĩa 1 chiều theo nhị nguyên mà thiên hạ thường dùng : “ Vô là tuyệt đối không có gì cả “ . Đạo ẩn mà chưa lộ hình , đó gọi là Vô vậy .

&&&&&

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2008

Vô 2

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
&&&

Vô 2 .

Bàn về công dụng thiết thực của chữ Vô , ở chương XI Lão Tử nói :” Ba chục căm , hợp lại 1 bầu , nhưng nhờ chỗ không mới có cái dùng của xe . Nhồi đất để làm chén bát , nhờ chỗ không mới có cái dụng của chén bát . Khoét cửa nẻo , làm buồng the , nhờ chỗ không mới có cái dụng của buồng the . Bởi vậy , lấy cái “ có ” đó để làm cái lợi . Lấy cái “không “ đó để làm cái dụng .

Bánh xe , nhờ chỗ “ trống không “ ở giữa mới để được cái trục , nhờ thế mà xe mới lăn được . Nên mới nói :” lấy cái không để làm chỗ dùng “ .

Nhân bàn về câu nói trên đây của Lão Tử văn hào Romain Rolland có viết :” Khi đọc đến cái tư tưởng sâu sắc trên đây của Lão Tử - tôi nghĩ ngay đến những giả thuyết mới đây của khoa thiên văn , thấy rằng cái trung tâm của bao nhiêu thế giới , chính là những khoảng trống không thăm thẳm của Vũ Trụ . ..Các bạn sẽ bảo : đó cũng chỉ là những giả thuyết thôi ! Thì cũng chẳng hơn chẳng kém gì những giả thuyết vững chắc nhất và công hiệu nhất của khoa học các anh ngày xưa . Vả lại , giả thuyết ấy cũng xác nhận hợp lí lắm vì nó thỏa hợp được với sự tiết kiệm của các luật tự nhiên trong Vũ Trụ và nó cũng ăn với sự điều hòa tự nhiên của các luật ấy .

Và đó cũng là chỗ mà Lão Tử bảo :” Hữu , sinh ư Vô “ vậy .

&&&

Còn về vấn đề sinh vật trong Vũ Trụ có í chí hay không có í chí , thì trái lại với người đồng thời , Lão Tử chủ trương rằng sinh vật trong Vũ Trụ tuyệt không có í chí , nghĩa là sống 1 cách tự nhiên không cố cưỡng .

Chương thừ 5 ông nói :” Thiên địa bất nhân , dĩ vạn vật vi sô cẩu “ ( trời đất không có lòng nhân , xem vạn vật như loài chó rơm ) .

Vương Bật giải câu này đại khái nói :” Đất , không phải vì con thú mà sinh ra rơm , nhưng con thú lại ăn rơm ; không phải vì con người mà sinh ra chó , nhưng người lại ăn chó ...” Thật là 1 sự giải thích sai lầm to tát của họ Vương . Vậy mà Nghiêm Phục lại hết sức thán thưởng cho rắng đó là đã quát tận thâm í của Đạt Quynh ( Darwin ) .

Kì thật sô cẩu là 1 thứ đồ cúng làm bằng rơm , bóng hình chó . Khi chưa cúng thì người ta trọng nó lắm , nhưng sau khi cúng xong thì lại đem vứt nó ra ngoài đường . Trang Tử ở thiên Thiên Vận có viết :” Ôi sô cẩu , lúc chưa dùng thì đựng trong giỏ , đội cho nó bằng gấm vóc , lại còn phải trai giới mà xem nó . Đến khi đã dùng xong , thì kẻ đi đường đạp lên xương sống nó mà đi , kẻ kiếm củi , lượm nó về mà nhúm lửa .

Như vậy , thì nói đến sô cẩu là muốn ám chỉ vật thay nhau mà tàn tạ giống như bông hoa của loài thảo mộc : xuân thì nở , thu thì rụng , rồi đến mùa xuân tới , lại trổ hoa , nhưng không còn phải là cái bông ngày hôm nay nữa . Cũng như cái hay cái phải của ngày trước , nay không còn dùng được nữa , thì bỏ đi... để cho theo kịp với cuộc sống đang chuyển của tạo hóa .

Trong cái khoảng thời gian biến chuyển giữa cái sinh cái tử kia của sự sự vật vật , thì Trời Đất vốn cũng không ân gì cho riêng ai , cũng không dụng tâm mà làm gì cả , đó chính là chỗ mà ông bảo “ thiên địa bất nhân “ , tức là cái luật biến hóa vô thường và lạnh lùng của tạo vật vậy .

Chỗ mà Lão Tử cho rằng Vạn Vật sinh ra là vô í chí , lại càng rõ rệt hơn nữa ở chương 34 :” Đạo lớn tràn lấp , bên phải bên trái . Vạn vật nhờ nó mà sinh ra , mà không 1 vật nào bị nó khước từ . Xong việc rồi , không để lại tên . Che chở , nuôi nấng muôn loài , mà không làm chủ . Thường không ham muốn , nên có thể gọi tên là Nhỏ , nhưng , được muôn vật theo về mà không tự xem là chủ , nên có thể gọi tên là Lớn “ .

( Đại đạo phạm hề , kì khả tả hữu . Vạn vật thị chi nhi sinh chi bất từ . Công thành danh bất hữu . Y dưỡng vạn vật nhi vi bất chủ . Thường vô dục , khả danh ư Tiểu . Vạn vật qui yên nhi bất vi chủ , khà danh vi đại ) .

&&&

Tóm lại , cái học của Lão Tử đều gồm vào 1 chữ Vô . Ở Vũ trụ thì gọi là Vô Danh , ở Chánh trị và Xử Thế thì gọi là Vô Vi . Nhất thiết đều không ngoài chữ Vô .

&&&

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2008

tự nhiên 1

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Tự Nhiên 1

&&&

Chương 17 :” Công thành sự toại , bách tánh giai vị ngã tự nhiên “ . ( Làm xong công việc cho dân , mà dân cứ tưởng tự nhiên tự mình làm ) .

Chương 23 : ” Hi ngôn tự nhiên “ ( Ít nói tự nhiên ) .

Chương 25 : ” Nhân pháp địa , địa pháp thiên , thiên pháp đạo , đạo pháp tự nhiên “ . ( người bắt chước đất , đất bắt chước trời , trời bắt chước đạo , đạo bắt chước tự nhiên ) .

Chương 64 : ” Học bất học , phục chúng nhân chi sở quá , dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên , nhi bất cảm vi “. ( Học cái không học, giúp chúng nhân hối mà trở về . Giúp vạn vật sống theo tự nhiên , mà không dám mó tay vào ) . Bất học ở đây đồng nghĩa với chữ tự nhiên , tức là đạo .

Trở lên 4 khoản bàn về 2 chữ tự nhiên . Nhưng chương 25 và 64 là nói về tự nhiên thuộc “ bản thể chi đạo “ . Còn chương 17 và 23 thì bàn veề “ nhân sự chi đạo “ . Hay nói 1 cách khác , chữ tự nhiên dùng nơi 2 chương 17 và 23 là dùng theo nghĩa thông thường . Trái lại tự nhiên dùng ở chương 25 và 64 là ám chỉ về đạo . “ Đạo pháp tự nhiên “ , chữ tự nhiên ở đây đồng 1 nghĩa với bản thể của đạo , thường được gọi là đạo thể .

Hùng Lí Liêm nói :” Pháp giả hữu sở phạm vi nhi bất khả quá chi vị “ ( bắt chước , tức là có chỗ ranh chắn không thể vượt qua được ) . Theo đó , ta thấy rằng Trời không thể vượt ra khỏi Đạo . Đạo không thể vượt ra ngoài Tự Nhiên . Hay nói 1 cách khác , Tự Nhiên sinh ra Đạo , Đạo sinh vũ trụ . Như thế ta thấy rằng bàn về nguyên lai của Vũ Trụ , Lão Tử chủ trương Vô
Thần luận .

&&&

Câu Pháp Tự Nhiên người đời thường hiểu rất là sai lạc : cho rằng không làm gì , để mặc tới đâu hay đó và cho đó là bắt chước tự nhiên .

Theo Lão Tử , Tự nhiên cũng được tượng trưng trong những cái mà ta gọi là “ luật tự nhiên “ của sự sống mà bất cứ 1 vật nào trên đời không thể vượt qua , mà sống đặng . Có sanh rồi có tử , đó là Tự Nhiên . Đói thì ăn , khát thì uống , đó là Tự Nhiên . Nhưng ăn uống có chừng , uống cũng có mực .Vượt qua chừng mực , là vượt quá Tự Nhiên , không thể còn gọi là Tự Nhiên được nữa .

Bất cập hay thái quá trong việc uống ăn , cũng như trong tất cả mọi hành vi đều là sái với Tự Nhiên cả . Đang cần ăn mà không ăn , đang cần không nên ăn mà ăn , đang cần phải ngủ mà không ngủ , đang cần không nên ngủ mà ngủ . Tất cả những gì sái thời lỗi tiết đều là trái với Tự Nhiên , đều là những nguyên nhân làm cho thương sinh đau khổ cả .

Người đời thường hiểu Tự Nhiên là cứ để y nguyên sự việc muốn xẩy ra thế nào thì hay thế đấy , phải cũng như quấy , lành cũng như dữ , tự do bành trướng ra sao cũng mặc , không cần can thiệp đến , sống mai danh ẩn tích , nghêu ngao vui thú yên hà ...

Nghĩa là họ hiểu Tự Nhiên tức là không làm gì cả ...Phải chăng đó là vu oan cho Lão Tử , người đã chủ trương “ khứ thậm , khứ xa , khứ thái “ , nghĩa là trừ khử những gí thái quá , đồng thời nâng đỡ những gì bất cập , để lập lại thế quân bình của Đạo , vì Tự Nhiên , đồng với luật Quân Bình ...

Bắt chước nó , thì phải lập lại Quân Bình tức là “ Tổn hữu dư , bổ bất túc “ , đó há không phải là những việc làm của những nhà Đại Cách Mạng từ xưa đến nay trong lịch sử để lập lại công bình , hay nói đúng hơn , lập lại quân bình trong xã hội sao !

&&&

Hành động Tự Nhiên theo Lão Tử lại cũng có nghĩa là hốt nhiên mà làm , không cố gắng , không miễn cưỡng , không cân nhắc , nghĩa là hành động đã đến mức vô tâm ...không còn lệ thuộc đến 1 nguyên tắc hay phạm vi nhất định nào của luân lí đạo đức hay giáo lí nào bên ngoài nữa cả .

Tự Nhiên đây , tóm lại , là vô tâm,vô niệm : làm mà không cần để ý đến việc mình làm nữa , như người lội mà không cần để ý tranh đấu với nước , không còn để ý đến việc lội của mình nữa . Đó là hành động đến mức hoàn thiện rồi vậy .

Người đời khi hành động bao giờ cũng kể đến lợi hại , phải quấy , cố gắng theo 1 qui củ nào , miễn cưỡng tránh những nguyên tắc nào , để cho đúng theo 1 khuôn mẫu bắt buộc nào ...Họ là người làm mà còn để ý đến việc làm của mình .

Làm cho người mà làm vì cân nhắc lợi hại , vì thương riêng , vì nhân đạo , vì tôn giáo bắt buộc , giáo lí cưỡng ép , làm để được tiếng khen , tránh tiếng chê ...thì không còn phải là tự nhiên nữa . Hành động tự nhiên theo Đạo không phải thế , là hành động Vô Vi của cành hoa nở vì nở , và không thể không nở đặng , bởi đã đến thời kì phải nở . Tự Nhiên đây , là “ bất đắc bất nhiên “.( không vậy không đặng ).

Mọi vật đều có cái Đức của nó . Cái Đức của mỗi vật tức là cái tánh Tự Nhiên của nó , cái bất đắc dĩ mà nó phải làm vì không thể không làm cho đặng .Vì vậy , Lão Tử cực lực phản đối những gì trở ngại sự phát triển Tự Nhiên ấy dù là luân lí , chế độ , tôn giáo hay giáo dục , không hợp với bản tánh tự nhiên của con người , nghĩa là Lão Tử đề cao vấn đề “ tự do “ của cá nhân .Và cũng vì thế mà có người cho chủ nghĩa Lão Trang là “ chủ nghĩa cá nhân ích kỉ “.

Trang Tử trong Nam Hoa Kinh , có dành riêng 1 chương Tiêu Diêu Du để giải thích cái nghĩa của Tự Nhiên tức là Tự Do sống theo bản tính hết sức rõ ràng . Vạn vật dưới trời , vật nào cũng có cái tính tự nhiên của nó . Phải biết chịu chỗ đó , tức là ta phải nhận sự “ bất đồng đẳng “ tự nhiên ấy của sự vật . Biết nhận sự “ bất đồng đẳng “ giữa vạn vật , thì ta phải biết kính trọng cái chỗ riêng biệt của mỗi vật , tức là cái tính tự nhiên của mỗi vật mà không xen vào làm trở ngại hay hư hoại sự phát triển tự nhiên của nó .

Không xen vào làm trở ngại hay hư hoại cái tính tự nhiên của mỗi vật là để cho mỗi vật được sống tự do cái sống của nó , nghĩa là được tự do phát triển cái tính của nó .

Cái mà ta gọi là Văn Minh , phần nhiều phải chăng là những khuôn khổ cần thiết đặt ra để hạn chế ngăn ngừa những hành động cá nhân ích kỉ quá khích của con người .

Dĩ nhiên , tới mực nào , nó có chỗ hay của nó , là tránh cho con người những sự dẫm lên tự do cá nhân của kẻ khác , nhưng nếu quá mức , nó sẽ trở thành những cưỡng ép bó buộc làm đau khổ cho con người không thể kể . Một nhà văn Tây Phương ngày nay có nói :” Một cái luật thiết lập chung cho cả loài sư tử và trâu bò , đó là áp chế “ .

&&&&&

tự nhiên 2

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Tự Nhiên 2

&&&

Chương 19 Lão Tử nói :”Kiến Tố , bảo Phác , thiểu tư quả dục “ ( Tỏ lòng đơn giản , giữ tính tự nhiên , ít riêng tây , ít tham dục ) . Đó cũng là bảo phải trở về với tự nhiên . Kiến Tố bảo Phác là gì ? Phác là gỗ mà còn tự nhiên , chưa đẽo gọt , chưa cưa dùng . Theo Lão Tử , thì chữ Phác dùng để ám chỉ Đạo , cái thể thuần phác lúc ban đầu , cái trạng thái bản nguyên của tâm hồn , chưa bị ảnh hưởng của Xã Hội làm sai lệch . Hay nói 1 cách khác , chưa bị luân lí , học thuyết , tập quán mà ta gọi chung là văn hóa hay văn minh làm sai lạc ...Bản tính Phác ở đây cũng đống nghĩa với tự nhiên ...

Nhận thức được cái bản tính đơn thuần ( Tố ) rồi , và mãi ôm giữ cái Bản Tính tự nhiên ấy ... đó là mục đích cuối cùng của ngưới học Đạo . Và nhờ vậy mà lòng trở nên ít riêng tây , ít tham dục , mới bảo phác ( mới giữ được cái tính thuấn phác tự nhiên ) , mới kiến tố , nghĩa là mới nhận thấy được tấm lòng trong trắng đơn thuần chưa bị ngoại giới nhuộm thêm màu sắc , hay sửa đổi thể chất , tức là bản tính .

Chữ Tố đây , nghĩa đen là 1 thứ tơ thuần chất trong trắng , dùng để ám chỉ lòng đơn thuần chưa bị ngoại cảnh tập nhiễm . Bởi vậy mới nói :” tuyệt thánh khí trí ... tuyệt nhân khí nghĩa , tuyệt xảo khí lợi ...thử tam giả dĩ vi văn bất túc “ .

Tại sao gọi rằng tuyệt 3 điều đó là chưa đủ ? Là vì làm được 3 điều đó , bất quá là những hành động tiêu cực , chỉ trị được cái ngọn mà không trị được cái gốc , tức là dứt được cái nguồn khêu gợi mà chưa dứt được cái lòng tham dục do sự mê chấp nhị nguyên gây nên .

Tóm lại , cố ôm giữ được Đạo thì mới nhận thấy được lòng trong trắng đơn thuần và nhân thế mới bớt được sự riêng tây , bớt lòng tham dục .

&&&


Xã hội Trung Hoa cổ được xây dựng trên 2 hệ thống tư tưởng truyền thống nghịch nhau , nhưng bổ túc nhau , là những hệ thống tư tưởng của Khổng học và Lão học .

Khổng học thì gồm nắm tất cả mọi ước lệ xã hội , hay nói 1 cách khác , Khổng học chuyên về sự đào tạo mọi trí thức ước lệ giả tạo . Từ trẻ đến già đều được giáo dục theo 1 khuôn khổ luân lí nhất định với mục đích là ức chế những khuynh hướng ngông cuồng và lãng mạn , phóng túng và ích kỉ cá nhân để thích nghi với cái giường của chàng Procuste , tức là chế độ xã hội và chánh trị . Giá trị của cá nhân là ở nơi vai trò của các nhân ấy đối với xã hội ấy .

Trái lại , Lão học là cái học của những kẻ đã rời bỏ cái sống giả tạo ước lệ của xã hội để trở về với đời sống thành thực của nội tâm . Sự từ bỏ những hoạt động xã hội là 1 cách giải thoát nội tâm khỏi những gông cùm của những ước lệ giả tạo của chế độ và xã hội , của những lề lối suy tư miễn cưỡng và cư xử không tự nhiên .

Lão học vì vậy , là 1 cái học đeo đuổi theo Tự Nhiên , chống với nhân tạo , căn cứ trên sự hiểu biết trực chỉ vào lòng mình . Trực tiếp với cái sống mà không cần phải trải qua 1 môi giới nào , hay phải theo 1 học thuyết hay giáo lí nào của con người bày ra cả .

Chương 22 Lão Tử nói :” Hi ngôn , tự nhiên “( ít nói , để cho tự nhiên ) . Nói lên câu ấy , có lẽ Lão Tử muốn khuyên ta đừng dụng tâm giáo thuyết , nhồi sọ con người với những ý tưởng cá nhân , mà bắt buộc mọi người cùng theo . Đó là cách giúp con người trở về với tính thuấn phác tự nhiên của mình .

Khổng Học nhắm vào việc uốn nắn con người theo 1 thể thức nhất định , theo những qui tắc hẹp hòi và cứng rắn của xã hội , và công việc ấy dĩ nhiên không sao tránh khỏi những va chạm vào đời sống cá nhân , gây tranh chấp và đau khổ cho cá nhân , gây nơi tâm hồn họ nhiều mặc cảm tai hại , làm cho con người sống trong những xã hội văn minh giả tạo ấy mất cả tính thành thực hồn nhiên và ngây thơ của con trẻ . Mà chỉ có những bậc Thánh , bậc Hiền mới tìm lại được mà thôi .

Vai trò của Lão học , trái lại , là tìm cách để phục hồi cái tâm trạng hồn nhiên : “ kiến tố bảo phác” ấy của con người , chẳng những bằng sự chữa trị những thái quá của sự buộc ràng về lễ giáo gây thành những “ mặc cảm tội lỗi ‘ có khi làm tăm tối cả cuộc đời , nó lại còn có sứ mạng phát huy cái đức hồn nhiên , thực thà thường gọi là tự nhiên , nghĩa là trở lại với cái người thật của mình .

Nhiều tâm hồn quá nhậy cảm không sao chịu nổi sự đàn áp của chế độ quá khắt khe của luân lí và xã hội nên khi gặp phải những dồn ép quá nặng nề mãnh liệt biến thành những tình trạng thác loạn gây nên nhiều tội ác hết sức đau thương . Phải chăng đó là 1 hậu quả mà ta phải trả để bù vào những lợi ích không thể chối cãi của những xã hội có tổ chức rất qui mô theo Khổng học ? Âu đó cũng là 1 chân lí mà Lão Tử thường nhắc nhở : không có 1 cái hay nào mà không có cái dở của nó kèm theo .

&&&

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2008

tự nhiên 3

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Tự Nhiên 3.

&&&

Tóm lại , muốn thực hiện cái Đạo nơi ta , đầu tiên phải hết sức thành thực đối với mình và đối với người . Điều trở ngại lớn nhất trên con đường giải thoát là cái sống giả dối , sống theo người mà không dám sống theo mình : phải có can đảm trở về với con người thật của mình , con người tự nhiên của mình , đừng có vì 1 lẽ gì mà che giấu sự thật .

Nghĩa là bất cứ gặp trường hợp nào đừng ham khen , đừng sợ chê , đừng để dư luận chi phối đến đỗi không bao giờ dám sống thành thật với mình .Trong khi giao thiệp với đời , cần phải dứt tuyệt cái thói mang những mặt nạ của kẻ khác , của học thuyết này , học thuyết nọ . của giáo lí này , giáo lí kia ... để mà đối xử với người .

Nên nhớ : bảo cần phải trở về với Con Người Thật của mình , là bảo phải “ Kiến Tố Bảo Phác “ nghĩa là trở về với con người vô kỉ , trở về với Chân Tánh , chứ không phải trở về sống theo cái con người ích kỉ của mình , tức là cái “ con thú “ hết sức vị thân vị kỉ và tham dục không bờ bến của mình .( Bản ngã ) .

Người đời thường cho kẻ sống trong giả dối là người khéo ở , dễ được lòng người và thành công trên con đường xử thế . Trái lại , người theo con đường giải thoát cần phải lánh xa cái thuật xử thế theo lối ấy , mà phải dám sống thành thật và hết sức giản dị , không cần cân nhắc lợi hại , không vụ thành công , không sợ thất bại , thản nhiên ở , thản nhiên đi , nghĩa là người không tham danh , không tham lợi ( vô kỉ , vô công ,vô danh ) .

Tòm lại , muốn thực hiện được Con Người Thật của mình , phải dám sống thành thật xem thường khen chê của dư luận , phải có 1 tinh thần bất úy , nghĩa là không còn biết sợ bất cứ 1 cái gì cả trên đời .

Bất khả đắc nhi thân ,
Bất khả đắc nhi sơ ,
Bất khả đắc nhi lợi ,
Bất khả đắc nhi hại ,
Bất khả đắc nhi quí ,
Bất khả đắc nhi tiện ...
( chương 56 )

Người Giải thoát là người đã đạt đến trạng thái điềm đạm chi cực , nghĩa là không còn có thể lấy sự Thân , Sơ , Lợi , Hại , Quí , Tiện ...mà dụ dỗ hay dọa nạt được nữa , tức là người không còn có 1 thế lực ngoại giới nào làm chuyển động tâm hồn được nữa .

&&&

Tuy nhiên , ta không nên xem Lão Học là cái học chống báng xã hội , phá rối trật tự đã an bài của xã hội , xúi giục những cuộc cách mạng bạo động , mà phải hiểu rằng nó là 1 phương pháp giải thoát tinh thần cá nhân trước hết . Một phương pháp cách mạng nhãn quan về vấn đề Vũ Trụ và Nhân Sinh .

Ta cũng nên biết rằng cách mạng xã hội mà dùng đến bạo động là sái rất xa vời chủ trương “ bất tranh “ dùng “ nhu nhược thắng cương cường “ của Lão Tử , vì theo ông , “ cường lương giả , bất đắc kì tử “ ( Dùng bạo động , chết bạo tàn ) .

Cách mạng bạo động chống độc tài , thường lại là phép dùng độc tài trị độc tài và lắm khi còn đem lại cho nhân dân 1 thứ độc tài tàn nhẫn hơn cái chế độ độc tài mà mình mong muốn hủy diệt . Giải thoát con người khỏi những gông cùm của ước lệ giả tạo xã hội đâu có nghĩa là khinh thường hay bất chấp những ước lệ ấy , mà thực sự , là không để cho mình bị lụy vì nó mà làm sai Thiên Chân , mất Thiên Tánh , mà biết dùng nó làm phương tiện , chứ không vô tâm để nó sai sử như 1 con cờ , bị nó xem mình như 1 món đố chơi .

Vì khuynh hướng của Lão Học là thiên về Tự Nhiên , cho nên người ta thấy phần đông các nhà Đạo Học đều là những người thích sống trong cảnh Thiên Nhiên hơn là sống giữa đời sống giả tạo của con người và tránh xa phiền lụy của những buộc ràng của Nghi Lễ ...

Giữa tạo vật thiên nhiên người ta cảm thấy tâm hồn thư thái , cởi mở ...Dù văn minh nhân tạo có hùng vĩ đến đâu cũng không sao hùng vĩ bằng cái hùng vĩ của Thiên Nhiên , và những người gần với cái học của Lão Trang phần nhiều là những thi sĩ và nghệ sĩ có 1 tâm trạng Huyền Đồng cùng tạo vật .

&&&

Ghi nhận :


Trong thương trường tranh dành đoạt lợi , nhiều khi ta không còn nhân tính nữa , mà chỉ muốn triệt tiêu đối phương bằng mọi cách , hầu mong độc quyền buôn bán .


Chúng ta nên học theo như các trận bóng đá , dù tranh nhau ngôi thứ , nhưng vẫn phải theo 1 luật lệ nhất định . Nếu ai vi phạm , thì sẽ bị thẻ vàng hay thẻ đỏ .

Chúng ta quên đi thiên tính của con người , mà trở thành những con ác thú , xâu xé lẫn nhau ...

Đạo đức kinh giúp ta trở nên Người đúng nghĩa là Người ...

&&&

Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2008

tuyệt thánh khí trí

Lão Tử Tinh hoa- Thu Giang Nguyễn Duy cần .
Nhân Nghĩa Thánh Trí .

&&&

Chương 19 Lão Tử viết :” Tuyệt Thánh khí Trí , dân lợi bách bội . Tuyệt Nhân khí Nghĩa , dân phục hiếu từ “ . ( Dứt Thánh bỏ Trí, dân lợi trăm phần . Dứt Nhân bỏ Nghĩa , dân lại thảo lành ) .

Chương 38 ông lại nói :” Thượng đức bất đức , thị dĩ hữu đức . Hạ đức bất thất đức , thị dĩ vô đức . Cố thất Đạo nhi hậu Đức , thất Đức nhi hậu Nhân , thất Nhân nhi hậu Nghĩa , thất Nghĩa nhi hậu Lễ . Phù Lễ giả , trung tín chi bạc , nhi loạn chi thủ “.

( Đức mà cao là không có Đức , bởi vậy mới có Đức . Đức mà thấp là không mất Đức , nên không có Đức ... Vì vậy mất Đạo rồi mới có Đức , mất Đức rồi mới có Nhân , mất Nhân rồi mới có Nghĩa , mất Nghĩa rồi mới có Lễ . Lễ chỉ là cái vỏ mỏng của lòng trung tín , mà cũng là đầu mối của hỗn loạn .)

Tại sao Lão Tử bảo phải “ dứt Thánh bỏ Trí , dứt Nhân bỏ Nghĩa “? Ông sở dĩ khinh Nhân Nghĩa , là vì ông trọng Đạo Đức , nên mới xem Nhân Nghĩa Thánh Trí là không đủ để thực hiện cái Đạo nơi lòng .Theo ông . Đại Đạo phế , hữu Nhân Nghĩa , Huệ Trí xuất , hữu Đại Ngụy . Lục thân bất hòa hữu hiếu từ . Quốc gia hôn loạn hữu trung thần “ .

( Đạo lớn mất mới có Nhân Nghĩa , Trí Huệ sanh , mới có dối trá , lục thân chẳng hòa , mới có hiếu từ , nước nhà rối loạn , mới có tôi ngay ).

Dùng đến Nhân Nghĩa là khi Đạo nơi người đã mất , con người đã sống trong chia rẽ của nội tâm và ngoại giới . Bấy giớ mới có dùng đến trí mưu mà trị nước :”Dĩ Trí trị quốc , quốc chi tặc ; bất dĩ trí trị quốc , quốc chi phúc ” . ( Lấy trí mà trị nước , là cái vạ của nước , không lấy trí mà trị nước , là cái phúc của nước ) .

Chữ Trí ở đây , là do câu “ dân chi nan trị , dĩ kì trí đa “ dùng làm đối chứng , và có nghĩa là “ đa mưu túc trí “ mưu mẹo khôn xảo , chứ không phải là ám chỉ sự sáng suốt thực thà theo nghĩa thông thường .

Những cái mà ta thường gọi là Nhân , Nghĩa ,Thánh , Trí ...đều là những đức tính của kẻ đã làm mất Đạo , nên Lão Tử chê nó là không đủ cho bậc Chí Nhân , vì bậc Chí Nhân là kẻ “ pháp thiên , pháp đạo , pháp tự nhiên “ .Tức là kẻ sống theo Đạo , theo tự nhiên .

Hơn nữa , Đạo là cái sống Một , người “ bắt chước theo Đạo “ sẽ không còn phân Nhĩ Ngã , Nội Ngoại cho nên không còn thấy có Ta có Người , mà thấy Ta là Người , Người là Ta .Còn lấy Nhân lấy Nghĩa mà xử với nhau , là vì còn thấy Đó không phải Đây , Đây không phải Đó . Nghĩa là còn thấy chia lìa nhau , đó là nhãn kiến Nhị Nguyên , chưa phải nhận thức của con người hòa hợp cùng với Đạo Thể .

Người mà còn dùng đến Nhân Nghĩa là người đã sống xa lìa với Đạo rồi vậy :” Thất Đạo nhi hậu Đức , thất Đức nhi hậu Nhân , thất Nhân nhi hậu Nghĩa , thất Nghĩa nhi hậu lễ ... “

Ở chương 5 , Lão Tử bảo :”Thiên Địa bất nhân , dĩ vạn vật vi sô cẩu . Thánh Nhân bất Nhân , dĩ bách tánh vi số cẩu “ . ( Trời đất không có Nhân , coi vạn vật như loài chó rơm . Thánh Nhân không có Nhân , coi trăm họ như loài chó rơm ) .

Chữ Bất Nhân ở đây là ám chỉ lòng vô tư , không thiên vị của trời đất ; luật của tự nhiên , không riêng cho vật nào cả , không vì kẻ rét mà dẹp mùa đông .

&&&

Luận về sô cẩu , Trang Tử viết :”Con chó rơm lúc chưa bày ra để cúng tế , thì được cất kĩ trong rương bọc bằng gấm vóc ; thầy cúng chay tịnh rồi mới dám đem nó ra . Kịp khi bày ra và cúng tế xong rời thì lại đem quăng nó ra ngoài đường cho kẻ đi đường đạp lên trên lưng nó , kẻ lượm củi hốt về mà chụm , thế thôi ! Nếu lại còn lượm nó mà đem cất giữ trong rương , mặc cho gấm vóc , thì nếu nó không làm cho ta bị chiêm bao , cũng đến làm cho ta bị bóng đè .

Cho nên pháp độ , lễ chế của Tam Hoàng , Ngũ Đế không cần ở chỗ giống nhau mà cần ở chỗ trị được thiên hạ . Như cam , lê , bưởi , quít , tuy mùi vị khác nhau , nhưng đều ăn ngon cả . Bởi vậy , Lễ Nghĩa pháp độ là cái mà ta phải biết tùy thời mà thay đổi cho thích hợp .

Nay lấy ngay như vượn khỉ mà cho mặc áo của ông Châu ắt nó cắn rứt , cào xé , vứt bỏ hết , thế mới vừa lòng cho . Xã hội chế độ xưa và nay khác nhau xa ( cố mà đem cái xưa tròng vào cái nay ) thì cũng như khỉ vượn mặc áo ông Châu vậy .

Cho nên Tây Thi đau tim , nhăn mặt mà thiên hạ cho là đẹp . Có người đàn bà rất xấu kia , thấy thế , về bắt chước ôm tim mà nhăn mặt , những kẻ giàu trong làng thì đóng chặt cửa không dám ra . Kẻ nghèo thấy nó dẫn vợ con bỏ chạy . ( Thiên Vận )

Bình giảng câu “ Thiên Địa bất nhân “ Trần Trụ viết :” trời đất sinh vạn vật , như sinh cây cỏ . Xuân thì đâm chồi , thu thì rụng lá .Đang sinh thì quí , đang rụng thì bỏ đi . Xuân tới sinh lại , nhưng không còn là cây cỏ ngày xưa . Thánh nhân đối với trăm họ cũng thế . Trăm họ , tức là trăm quan lãnh phần thi hành chánh giáo . Trăm quan ngày nay không còn là trăm quan ngày xưa thì chánh giáo ngày xưa cũng không dùng cho ngày nay được nữa .

Như thế , ta thấy Lão Tử phản đối thuyết phục cổ , như Trang Tử thường bài bác Nho Gia nói Nhân Nghĩa để tâng bốc Tiên Vương .

&&&

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2008

học

Lão Tử Tinh Hoa- Thu Giang Nguyển Duy Cần .
Học

&&&

Cũng như về Nhân , Nghĩa , Thánh , Trí , Lão Tử chủ trương “Tuyệt học vô ưu “ ( dứt học không lo ) là tại sao ?

Có kẻ cho rằng Lão Tử chủ trương ngu dân ... thực sự thì như thế nào?

Cái “ học “ mà ông bảo nên “dứt “ đi , tức là cái học Nhị Nguyên , cái học chi li vụn vặt theo đuổi sự vật bên ngoài mà không biết trở về gốc , tức là cái Đạo nơi lòng mình . Cái học của con người thường thiên về hướng ngoại , biện phân : Thiện Ác , Thị Phi , Vinh Nhục ...đó là cái học xa với Đạo . Bởi vậy ông mới nói :

Dứt học , không lo, dạ với ơi , khác nhau chỗ nào ? Lành với dữ , khác nhau ở đâu ? ( Tuyệt học vô ưu , duy chi dữ a , tương khứ kỉ hà ? Thiện chi dữ ác , tương khứ nhược hà ?) Được người ta “ dạ “ đâu phải là vinh , bị người ta “ ơi “ đâu phải là nhục ...Thực ra 2 chữ dạ và ơi đủ đâu phân vinh nhục . Cũng như thiện và ác , khác nhau chỗ nào ? Chẳng qua là bề mặt bề trái của bất cứ mọi sự vật nào trên đời .

Còn chia phân Thiện Ác , Vinh Nhục ... là còn sống trong cái sống chia lìa của “ Tư ngã “xa lìa với cái sống Một , thì tránh sao khỏi lo lự viển vông .

Bởi vậy , ở chương 48 ông lại nói thêm :”Vi học nhật ích , vi Đạo nhật tổn “ ( theo học càng ngày càng tăng , theo Đạo càng ngày càng giảm ) .

Tăng cái gì ? tăng sự phiền phức rườm rà chi li vụn vặt . Trái lại kẻ theo cái học về Đạo , thì trở về nguồn gôc , nên càng ngày càng tiết giảm những cái vụn vặt chi li vô cùng phiền phức , và đồng thời dục vọng càng ngày càng giảm thêm ... đến mức vô vi .

Đó là cái học cần phải dứt đi , để trở về với Đạo Một , và cái học cần thiết cho người là cái học trở về nguồn , tức là phải “ học bất học “. Chương 64 ông nói :” Học bất học , phục chúng nhân chi sở quá “ ( Học cái không thể học được , giúp cho chúng nhân hối mà trở về ) .

Chữ Học là chỉ sự học hành theo nghĩa thường , chữ “ bất học “là ám chỉ “ cái không thể học “ ,vì Đạo là cái bất khả ngôn luận , bất khả tư nghị .

“ Đạo khả Đạo phi thường Đạo “ cho nên mới nói : Bực Thánh Nhân mà biết học về Đạo , thì khiến được lòng dân hối trở về với nguồn gốc .

Câu :” Thị dĩ Thánh Nhân , dục bất dục , bất quí nan đắc chi hóa , học bất học , phục chúng nhân chi sở quá “, cần phải dịch như thế này mới nhất trí hơn :” Bởi vậy bậc Thánh Nhân , muốn cái không thể muốn , không quí của khó được , học cái không thể học , giúp chúng nhân hối mà trở về “ .

Tóm lại , về chữ Học , Lão Tử chủ trương :

Không nên theo đuổi cái học la tập của Nhị Nguyên , chia lìa cái Sống Một làm 2 , tức là cái học biện phân Nhĩ Ngã , Nội Ngoại , Thị Phi , Vinh Nhục , Thiện Ác ...

Mà cần phải học cái không thể học ,tức là học cái “ bất khả tri “,” bất khả Đạo “, “ bất khả danh “ , nghĩa là học về cái “ trở về nguồn gốc “ , tức là Đạo .

&&&&&

Ghi nhận :


Ai cũng thích Thiện , nên xem kẻ trộm là ác xấu , bắt được thì nhốt giam hay chặt tay chân như bên Trung Đông để trừng trị . Thành ra trở thành Ác vì hại người , không còn thiện nữa !


Nếu là bậc thánh trí , thì làm sao không dùng hình phạt , mà dân không trộm cướp mới hay !


Biết đâu nguyên nhân là do triều đình xa hoa , phung phí , đánh thuế cao , làm dân nghèo đi , và trở thành trộm cướp .


Chứ dùng hình phạt nặng ,để dẹp trộm cướp , nhưng giết bao nhiêu dân cho vừa ? Vì đói quá , cho dù biết chết dân cũng đành phải ăn trộm .


Giảm thuế , tăng phúc lợi , giúp dân công ăn việc làm là hành động thiết thực nhất . Giảm xa hoa , bớt nhũng nhiễu , không cờ bạc ...

&&&

phản và phục 1

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Phản và Phục 1 .

&&&

Hai chữ Phản và Phục có thể xem là nòng cốt của học thuyết Lão Tử .
Chương 40 ông nói :” Phản giả , Đạo chi động “( Cái động của Đạo là trở ngược lại ) .
Nhưng từ cái Một biến qua Vạn Hữu , từ Vạn Hữu trở lại cái Một , Lão Tử quan niệm như thế nào ?

Chương 42 ông nói :” Đạo sinh Nhất , Nhất sinh Nhị , Nhị sinh Tam , Tam sinh Vạn Vật . Vạn Vật phụ Âm nhi bảo Dương , Xung khí dĩ vi hòa “

( Đạo sinh Một , Một sinh Hai , Hai sinh ba , Ba sinh vạn Vật . Trong Vạn vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương . Nhân chỗ xung nhau mà hòa với nhau ) .

Nhất đây là nói về Bản Thể của Đạo ; Nhị là trỏ vào Âm và Dương ; tức là 2 nguyên lí Mâu Thuẫn đồng có trong mọi vật , vì trong Vạn Vật , không vật nào là không cõng Âm và bồng Dương . Giữa sự xô xát , xung đột của 2 nguyên lí ấy , có 1 cái gì nắm giềng mối và làm cho chúng dung hòa nhau , đó là nguyên lí thử Ba , cái Dụng của Đạo , chỗ mà Lão Tử gọi “ xung khí dĩ vi hòa “ .Điều mà ta nên để ý là “ xung nhau “ để mà “hòa nhau “ chứ không phải xung nhau để mà Thủ Tiêu lẫn nhau .

Nếu không có sự đun đẩy của 2 nguyên lí Âm Dương thì không có Động , mà nếu không có sự có mặt cái “thử ba “ kia , mà Lão Tử gọi là “ xung khí dĩ vi hòa “ thì không có 1 sự vật nào thành được . Cho nên mới nói :” Tam sinh vạn vật “

Có người bảo rằng cái học của Lão Tử thoát thai nơi Kinh Dịch . Lời nói ấy không phải là không có lí do . Xét kĩ thì sách của Lão Tử có sau Kinh Dịch , mà xét rõ triết lí của Kinh Dịch , nhất là ở quẻ Phục , thì lại thấy rõ ràng có nhiều chỗ tương đồng .
Theo Dịch Kinh thì Dương Âm là 2 nguyên lí Mâu Thuẫn , có những đặc tính riêng khác biệt nhau , như cương nhu , nóng lạnh , sáng tối ...Tuy nghịch nhau , nhưng để mà “ bổ túc “ nhau ( * ) , chứ không phải để mà thủ tiêu lẫn nhau . hễ Âm cực thì Dương sinh, Dương cực thì Âm sinh , “ vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản “ , nhưng khi phản biến , thì lại biến thành đối đích của nó . Lạnh biến ra nóng , nóng biến ra lạnh , tối biến ra sáng , sáng biến ra tối .

&&&

(*) chú thích của tác giả : Nói rằng 2 nguyên lí Âm Dương ấy bổ túc nhau , thực sự cũng không thật đúng , là vì nói thế , lại mặc nhiên nhận rắng 2 nguyên lí ấy có chổ khác nhau ... Mà phải nói rằng : Âm là Dương , Dương là Âm , Lành là Dữ , Dữ là Lành , Phải là Quấy , Quấy là Phải ...Nóng là Lạnh , Lạnh là Nóng ...nghĩa là cả 2 đều là 1 , nhưng khác độ . Hai chữ bổ túc là danh từ cưỡng dụng để tạm miêu tả trạng thái lúc Độ và Lượng của chúng cách xa nhau .

&&&

Tại sao Âm lại biến ra Dương , Dương lại biến ra Âm , lật qua lật lại như thế ? Là vì trong Âm có ẩn phần Dương , trong Dương có ẩn phần Âm , chứ thực ra không bao giờ có 1 cái gì thuần Âm hay thuần Dương cả :” Âm trung chi Dương , Dương trung chi Âm “ . Luật Mâu Thuẫn là luật đầu tiên của Kinh Dịch . Nhưng chỉ đợi lúc nào Âm hay Dương phát triển đến mức cùng cực của nó thì phần đối đích , mâu thuẫn chứa trong lòng nó mới phát sinh ra được mà thôi .

Đó cũng là nhận xét chung của các nhà tư tưởng biện chứng Âu tây như Heraclite và Hegel :” Mỗi vật đều có chứa Mâu Thuẫn của nó “ .

Nho gia là Trình Di bàn về quẻ Phục , cò những nhận xét sau đây là xác đáng :” Vật bất khả dĩ chung tận ... Vật vô bác tận chi lí ... Âm cực tắc Dương sinh . Dương bác cực ư thượng nhi phục ư hạ , cùng thượng nhi phản hạ dã .”

( Vật , không thể đến mức cùng tận được ,,,Vật mà bị tiêu hủy đến cùng tận là điều phi lí vậy . Âm mà lên đến cực điểm thì là dọn đường cho Dương sinh . Dương mà bị đẽo ở trên cùng tột , thì lại phản sinh ở dưới )

Quẻ Phục ở liền tiếp với quẻ Bác . Quẻ Bác tượng trưng 5 hào Âm ở dưới và 1 hào Dương trên cùng tột ( hào thượng cửu ) . Dương hào ở hào thượng cửu , nơi quẻ Kiền có nói :” thượng cửu , kháng long hữu hối “ .

Dương mà lên đến cực độ , thì sẽ bị biến dịch , cho nên mới nói :” có ăn năn ( Hữu hối ) “ .

Trình Di bàn về quẻ Phục có câu :”vật , không trọn hết sự đẽo ( bác) mà đến chỗ cùng tận của nó ở trên quẻ Bác , thì quay trở về dưới ... Vật , không vật nào có thể đẽo hết được , cho nên sự đẽo mà đến cùng cực thì phải trở lại ( Phục ) .

Nghiên cứu tường tận quẻ Phục ở Kinh Dịch , ta có thể nhận thấy rõ lẽ trời :” Phục kì kiến thiên địa chi tâm hồ “ ( Do quẻ Phục mà ta có thể thấy được cái Tâm của Trời Đất ) ( Hệ từ truyện hạ ).

Rất có thể Lão Tử nhân đó mà nghĩ ra học thuyết của ông lấy chữ Vô , tức là lấy Âm cực làm căn bản :” Trí hư cực , thủ tịnh đốc “ . Kẻ nào đạt đến chỗ “ cùng cực của hư không “ ( Chân không ) là kẻ đã đứng vững trong cái Tịnh . Hễ Âm cực thì Dương sinh , Tịnh cực thì Động sinh .Vạn sự vạn vật đều hễ phát đạt đến cực độ thì lại phản phúc biến thiên , chuyển thành đối đích của nó .

Bởi vậy , ta không lạ gì chủ trương xử thế của ông luôn luôn giữ phần tiêu cực . Hào Dương của quẻ Chấn , mới thật là Dương phục sinh để đợi thời ( Dương trưởng ) . Dương này là Dương mới phục sinh , còn yếu , nên mới gọi :” sơ cửu tiềm long , vật dụng .( Hào đầu , như con rồng còn nằm đáy vực , chớ dùng ) nên phải đợi đến ngày Dương trưởng . Hào Dương ở quẻ Cấn , là Dương tiêu , nghĩa là hào Dương đã suy nhược đến cùng .

Sự cương cường của hào Dương ở quẻ Chấn , là nguồn gốc sinh ra Vạn Vật , nên mới nói :” Vạn Vật xuất hồ Chấn “ ( Quái truyện ) .

Lấy đấy mà suy , ta thấy dụng ý Lão Tử toàn dùng phép tiêu cực là để gây được nguồn Động cường tráng nhất , cho nên ở quẻ Phục mới nói :” Phục hanh , cương phản , động nhi dĩ thuận hành ...“ ( Hanh là hanh thông , Phục là cương đã trở lại cường Kiện , nên Phục được gọi là hanh thông ,vì cái động của hào Dương này là con đường thuận của Trời Đất .

“ Phản phục kì Đạo, thất nhật lai Phục , thiên hành dã “ .

Con đường thuận , là con đường từ dưới lên trên . Dương hào ở hào đầu tức là thuận Đạo , càng ngày càng lớn lên . Nho gia là Chu Hy cũng nhận thấy :” Nội Chấn , ngoại Khôn , đó là cái tượng Dương động ở dưới mà theo đường thuận đi lên .. Phục là Dương phục sinh ở dưới , Dương khí đã bị đẽo hết thì là quẻ Thuần Khôn , tức là quẻ thuộc về tháng 10 , mà khí Dương đã sinh ở dưới hàm chứa hơn tháng thì cái thể của 1 phần dương khí mới thành mà trở lại , cho nên tháng 11 thuộc về quẻ Phục . Khí Dương đã trở lại , nên có Đạo hanh thông .

Tại sao lại gọi “ thất nhật lai phục “ ? Là vì qua tháng 5 là quẻ Cấn ,1 phần Âm mới sinh và sinh sinh đến quẻ phục là 7 hào .

Hiểu được cái cương cường của quẻ Phục , mới rõ được thâm ý dùng phương pháp thuần tiêu cực của Lão , mới hiểu được những chủ thuyết “ nhu nhược thắng cương cường “,”bất tranh nhi thiện thắng “, “ vô vi nhi vô bất vi “, tuy Tịnh mà Động , nghĩa là mới hiểu rằng Vô Vi của Lão Tử đâu phải là im lìm bất động , mà là cốt dùng Tịnh cực để cho Động sinh , 1 cái Động cương cường của hào Dương của quẻ Chấn .

Quẻ nội Chấn , nhất dương sinh , tức là tiếng sấm do âm dương xô xát nhau mà thành , nhưng đương lúc khí Dương còn nhỏ , chưa thể phát ra . Quẻ Phục , trên là Khôn , dưới là Chấn , gọi là quẻ Địa Lôi Phục , nghĩa là sấm ở trong lòng đất .Khí Dương mới sinh ở dưới mà còn rất nhỏ , nên cần yên lặng mà sau nó mới lớn lên được ...

Ở bản thân , sau khi :” trí hư cực , thủ tịnh đốc “ , thì cũng nên yên lặng để mà nuôi dưỡng khí Dương . Bởi vậy ta mới thấy chủ trương của Lão Tử là Thanh Tĩnh Vô Vi .

Thanh tĩnh vô vi là điều kiện cần thiết để phục hồi khí Dương và cũng là để nuôi khí Dương sắp sửa phát huy dương lực , chứ không phải ẩn dật để mà hưởng thú an nhàn cực lạc trong sự lười biếng ích kỉ .Trong trời đất , bất cứ 1 cuộc biến động lớn lao nào đều đi sau 1 sự cực kì yên lặng . Các bậc vĩ nhân trước khi khởi công làm 1 đại sự gì luôn luôn lẫn trốn 1 thời gian trong cô tịch . Đó lá yên lặng để nuôi khí Dương như Thích ca , Jesus chẳng hạn...

Xem đó , ta có thể nhận rằng Lão Tử rất có thể nhân quẻ Phục ở Dịch Kinh mà suy ra cái thuyết Vô Vi của ông , thể theo cái đầu mối của sự sinh hóa trong Trời Dất bắt đầu ở chỗ cực Âm , động thành quẻ Phục, sinh lực bắt đầu manh nha trong lòng đất .

&&&&

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2008

phản và phục 2

Lão Tử Tinh Hoa- Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Phản và Phục 2.

&&&

Để giải nghĩa câu ” Phản Phục kì Đạo ... Thiên hành dã “ . Ở Hệ từ hạ truyện có câu :”Nhật vãng tắc nguyệt lai , nguyệt vãng tắc nhật lai, nhật nguyệt tương thôi nhi minh sanh yên . Hàn vãng tắc thử lai , thử vãng tắc hàn lai , hàn thử tương thôi nhi tuế thành yên “.

( Mặt trời qua thì mặt trăng lại , mặt trăng qua thì mặt trời lại , mặt trời mặt trăng cùng xô đẩy nhau mà có sáng .Lạnh qua thì nóng lại , nóng qua thì lạnh lai , lạnh nóng cùng xô đẩy nhau mà năm mới thành ).

Vật dưới trời đều Phản Phục bất thường ...Ở quẻ Phục trong Kinh Dịch , Nho gia là Chu Hy cũng nói :” hễ Tĩnh cực thì Động sinh , Ác cực thì Thiện sinh “

Hễ có sanh , thì có tử , mà có tử mới có sanh , lên rồi xuống , xuống rồi lên , phản phúc biến động không ngừng . Và để phòng sự phản phúc biến thiên vì đã để cho sự vật phát đạt đến cực điểm , mà Lão Tử khuyên ta :” Biết đủ ( tri túc ) , biết dừng ( tri chỉ ) , biết để thân ra sau ( hậu kì thân ), biết để thân ra ngoài ( ngoại kì thân ) ,biết lấy cái tiện làm gốc , lấy cái thấp làm nền ( dĩ tiện vi bổn , dĩ hạ vi cơ ).

Cũng để biểu diễn cái luật cốt yếu của cái đạo biến hóa ấy , ở chương 25 ông nói :” Đại viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản “ ( Lớn là tràn phắp, tràn khắp là đi xa , đi xa là trở về ) .Câu này có nghĩa là bất cứ sự vật nào trên đời , hễ phát đạt bành trướng đến cực điểm sẽ bị đại biến : “ Vật cùng tắc biến “ , nghĩa là biến trở lại cái Mâu Thuẫn trước kia của nó .

Nó là 1 luật Thường của Tạo Hóa . Vì vậy ông mới nói :” Họa hề phúc chi sở ỷ, phúc hề họa chi sở phục , thục tri kì cực “ . ( Họa là chỗ dựa của Phúc , Phúc là chỗ núp của Họa . Ai biết được đâu là chỗ cùng cực của nó ?) .

Biết đâu Phúc đó mà Họa đó , mà Họa đó lại Phúc đó ? Phúc rồi Họa , Họa rồi Phúc xen lẫn tiếp tục nhau không biết đâu là dứt . Hay nói 1 cách khác , không bao giờ có Phúc mà không có 1 cái Họa ẩn trong , cũng như không bao giờ có Họa mà lại không có cái Phúc ẩn trong . Đó là bề mặt bề trái của sự đời , cũng như có Thiện thì có Ác , có Thị ắt có Phi , có Vinh ắt có Nhục ...

Bởi vậy gặp May , phải phòng cái Rủi do cái May ấy đưa đến ! Và gặp Rủi , biết đâu nó lại không phải là cái May sắp đến cho mình !

Chương 22 , Lão Tử viết :” Khúc tắc toàn , uổng tắc trực , oa tắc doanh , tệ tắc tân , thiểu tắc đắc , đa tắc hoặc . Thị dĩ Thánh nhân bảo nhất ... “ Đạo là quân bình , không cho có cái gì thái quá . Thái quá ở đây , thì bất cập ở kia . Bất cập ở đây , thì Thái quá ở kia . Cho nên cái gì khuyết , thì Đạo sẽ bù vào cho đủ lại , vẹn toàn lại . Cái gì cong , thì Đạo sẽ làm cho ngay lại .Cái gì sâu , thì Đạo sẽ lấp lại cho đầy . Cái gì cũ , thì Đạo sẽ làm cho mới lại . Ít thì lại được , nhiều thì lại mê .

Chương 23 , ông nói thêm :”Phiêu phong bất chung triêu , sậu vũ bất chung nhật . ( Gió lốc không thổi suốt 1 buổi mai , mưa dào không mưa suốt 1 ngày trường ). Đạo rất ghét những gì Thái Quá , cho nên ông khuyên ta , nếu cần phải làm thì hãy “ khứ thậm , khứ xa , khứ thái “ ( nghĩa là hãy trừ khử những gì thái quá ) vì “ Xí giả bất lập , khóa giả bất hành “ ( Nhón gót lên thì không đứng vững , xoạc chân ra thì không bước được ) .Cái thái quá sẽ làm mất thăng bằng .

Để minh chứng cái định luật Phản Phục , không chương nào nói rõ ràng bằng chương 36 :” Tương dục hấp chi , tất cố trương chi . Tương dục nhược chi , tất cố cường chi . Tương dục phế chi , tất cố hưng chi .Tương dục đoạt chi , tất cố dữ chi ”.

( Hễ hòng muốn thu hút đó lại , là sắp mở rộng cho đó ra . Hòng muốn làm yếu đó , là sắp làm đó mạnh lên . Hòng muốn vứt bỏ đó , là sắp làm hưng khởi đó . Hòng muốn cướp đoạt đó , là sắp ban thêm cho đó ).

Tóm lại , hễ làm cho Âm cực , là dọn đường cho Dương sinh . Chứ không bao giờ dùng Âm mà thủ tiêu Dương , hay dùng Dương mà thủ tiêu Âm . Cho nên kẻ sáng suốt , bao giờ cũng chịu đứng sau để được đứng trước , đứng dưới thấp để được ngôi cao , và lâu dài .

Cũng cùng 1 ý đó , nơi chương 42 ông nói :”Tổn chi nhi ích , ích chi nhi tổn “.( bớt là thêm , thêm là bớt ) Tại sao vậy ?

Cài nhìn của người theo Đạo là cái nhìn bao trùm , thấy nhân loại như 1 cơ thể chung , thấy mỗi sự mỗi vật là 1 cái toàn thể .Và xem mọi sự mọi vật là những phần tử của 1 cái Sống Chung cũng như trong nhân loại người theo Đạo không phân chia màu da , dân tộc .

Vì vậy ông không có những quan niệm rời rạc cá nhân , hay quốc gia , dân tộc . Ai có trồng cây mới thấy rõ cái nghĩa thâm sâu của câu “ bớt là thêm , thêm là bớt “ . nếu đứng về phương diện rời rạc của từng bộ phận của cái cây , thì ta thấy “ bớt lá bớt “ , cũng như “ mất là mất “, chứ không thấy được cái chỗ “ bớt là thêm , thêm là bớt “ . Nhưng nếu đứng trong phương diện toàn diện của cái cây mà xem thì “ bớt là thêm , thêm là bớt “có thể quan niệm dễ dàng được .

Những công việc tỉa nhánh bẻ lá của nhà trồng nho không phải là công việc “ bớt là thêm “ hay sao ? Những cây nho được người ta tỉa nhánh sẽ là những cây nho có trái sai ; sinh lực của nó ở các lá nhánh bị tỉa bớt kia sẽ đổ dồn vào thân cây để giúp sức cho hoa trái .

“ Tổn chi nhi ích , ích chi nhi tổn “ như câu “ tương dục hấp chi , tất cố trương chi “ , đều là công dụng của luật Quân Bình của Đạo . Bớt là bớt cái có dư để thêm vào chỗ bất cập , theo cái nghĩa “ Thiên chi Đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc “ ở chương 77 .

Đoạn văn trên đây “ tương dục hấp chi , tất cố trương chi “ có 1 giá trị hết sức quan trọng trong thuyết Phản và Phục của Lão Tử . Đại í của đoạn này là muốn bảo rằng :” phàm muốn 1 việc gì thái quá , trái lại phải gặt lấy những kết quả ngược với lòng mong muốn của ta .Lão Tử cũng có nói :” Không có cái lầm lẫn to tát nào bằng lòng ham muốn đạt cho kì được cái kết quả tích cực của 1 việc mà mình quá mong ước “ ( Cữu mạc đại ư dục đắc ) . Bất cứ 1 tình dục nào cũng đều có 3 giai đoạn : khao khát , chiếm đoạt và chê chán .

Không đâu biểu diễn luật Quân Bình của đạo rõ ràng bằng ở đoạn văn trên đây . Những cặp Mâu Thuẫn , hấp và trương , cường nhược , hưng phế , luôn đi đôi với nhau . Xin nhắc lại : Người ta quên rằng hễ Âm cực là dọn đường cho Dương sinh , và trái ngược lại hay sao ? Cho nên đối với bản thân , cũng như đối với kẻ khác , người thông hiểu Đạo 1 cách sâu xa , không bao giờ chịu để cho 1 việc Thái Quá nào có thể xẩy ra :”Vật bất chí giả , tắc bất phản “ .

( Vật mà không đi đến chỗ cùng cực của nó , thì không phản biến lại được ) Đạo trị nước cần phải thận trọng để ý đến câu nguyên tắc này mà đừng bao giờ dồn ép cái gì đến mức cùng độ .

Đối với bản thân , không bao giờ nên để có sự dư thừa mà lại cần phải có sự bớt đi . Tự mình phế bỏ , để mà tự mình được hưng lên . Trái lại nếu muốn quá tự hưng tức lại là mình tự phế đấy ! Người trị nước cần phải có 1 nếp sống khắc khổ để tinh thần được lên cao . Cái công dụng của sự thiếu thốn trong đời người , làm cho con người trở nên thanh cao hơn là sự quá đủ , quá thừa . ( Kì tại đạo dã , viết dư thực chức hành , vật hoặc ố chi ).( Theo đạo mà nói , thì : đồ ăn dư , việc làm thừa , ai cũng oán ghét )

Áp dụng nguyên lí trên đây trong phép xử kỉ tiếp vật , trong việc quốc gia xã hội , tâm lí hay xã hội , đều thấy ứng nghiệm . Đối với việc tu thân thì tiết chế tư dục hay hơn là thỏa mãn tư dục . Nếp sống khắc khổ của các vị tu sĩ đâu phải là không có lí do sâu sắc .

Kẻ tự phụ kiêu căng thì tự mình làm hạ nhân cách và mất nhân tâm . Kẻ biết khiêm cung từ tốn lại là kẻ khéo nuôi dưỡng và làm hưng khởi lòng Đạo Đức của mình và được người đời mến chuộng . Cho nên mới nói “ đứng sau mà thành ra đứng trước “ , “ở dưới thấp mà được ngồi trên cao “.

Về phương diện tâm lí thì “ Phàm sự nan cầu giai tuyệt mĩ , cập năng như nguyện hựu thường tình “ . ( Phàm sự khó cầu mong được thì bao giờ cũng tốt đẹp , đến khi chiếm được rồi thì việc ấy lại trở thành tầm thường ).

Là tại sao ? Đói khát thì ăn uống ngon lành , ăn no thì hết ngon , no quá sẽ sinh ra chán ghét . Có đau yếu mới nếm được cái thú của sự khang kiện . Vợ chưa cưới quí hơn người vợ đã cưới ; vợ người đẹp hơn vợ mình . Đó là thông bệnh của con người : thiếu thì mong , được thì chán .

Người bị nhục dễ được vinh quang , nước bị nhục dễ vượt lên địa vị cường thịnh . Cho nên có thể nói : Nhục là điều kiện của Vinh , Nghèo là điều kiện của Giàu , Tối là điều kiện của Sáng , Quấy là điều kiện của Phải , Hư là điều kiện của Nên , thất bại là mẹ của thành công , và Đau khổ là điều kiện của Hạnh Phúc .

Biết rõ Định Luật ấy , phần đông các nhà Quyền Mưu thời Chiến Quốc áp dụng câu nói trên đây của Lão Tử để làm chính trị và tôn ông làm bậc Thầy , và nhân đó bị hậu thế gán cho ông là nhà mưu thuật , há không phải là oan lắm hay sao ?

Heraclite cũng đồng 1 ý nghĩ như Lão Tử khi ông nói :” Những trận Đại Thắng là những trận Đại Bại . Những nước cường thịnh là những nước bắt đầu đi xuống , những văn minh cực thịnh là những văn minh bắt đầu suy vi . Những suy tàn đều nằm sẵn trong cái thịnh vượng . Cho nên phép x ử thế hay nhất trong đời là phải biết : “ tri kì vinh , thủ kì nhục “ để mà tránh “ cái họa nằm trong cái phúc “ .

&&&&&

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2008

phản và phục 3

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Phản và Phục 3 .

&&&
Tóm lại , hễ Âm cực là dọn đưởng cho Dương sinh chứ không bao giờ có sự thủ tiêu lẫn nhau giữa 2 nguyên lí Mâu Thuẫn ấy . Vì vậy , kẻ sáng suốt bao giờ cũng chịu ‘ đứng sau ‘ để được ‘ đứng trước ‘. Chịu ‘ ngồi dưới thấp ‘ để được nâng lên cao . Tiêu cực là điều kiện của tích cực , nên mới nói “ hòng thu rút lại là sắp mở rộng cho đó ra , hòng muốn làm yếu đó là sắp làm cho đó mạnh lên ; hòng muốn vứt bỏ đó là sắp làm hưng khởi đó ; hòng muốn cướp đoạt đó là sắp ban thêm cho đó “ .

&&&

Cùng 1 ý như trên , Lão Tử nói :” Thiên hạ chi chí nhu... trì sính thiên hạ chi chí kiên “ ( cái rất mềm trong thiên hạ , thắng cái rất cứng trong thiên hạ ) .

Những lí thuyết Mâu Thuẫn trên đây , sẽ không thấy gì là Mâu Thuẫn nữa cả nếu ta nhận thấy rõ cái luật Phản , Phục của Tạo Hóa . Nhưng , trái lại , đối với kẻ tầm thường chưa thông hiểu được cái định luật quan trọng này , họ sẽ thấy toàn là Mâu Thuẫn . Vì vậy , ông mới nói :” Chánh ngôn nhược phản “ ( Lời nói đúng với chánh lí thì dường như những lời trái ngược với í thức thông thường ). Và , kẻ sĩ bậc thấp , nghe nói đến Đạo thì cười to lên . Không cười , sao đủ gọi đó là Đạo . Đạo là bao trùm , kẻ “ hạ sĩ “ làm gì thấy được hiểu được mà không cười nhạo !

Bởi người ta phần đông không biết suy tư theo biện chứng , nên không nhận rõ luật Mâu Thuẫn , luật Phản Phục như đã nói trên , nên không sao hiểu được những lời nói mà ông gọi là “ chánh ngôn nhược phản “ ấy .

Trong quyển La Revolution Mondiale , danh sĩ Hermann de Keyserling có đưa cái định luật Phản Phục trên đây ra làm đề tài chứng minh cho quyển sách của ông rất là rõ ràng :” Mỗi 1 cái động đều tự nhiên gây thành 1 cái động nghịch lại , vì thế mà Cấp Tiến sanh ra Bảo Thủ , Dịu Hiền sanh ra Bạo Tàn , Thiện sanh ra Ác , hoặc trái ngược lại ... Nhưng rồi sau cùng , sau 1 cuộc xô đẩy cọ sát nhau , những cặp mâu thuẫn trước đây , không bị thủ tiêu , vứt bỏ lẫn nhau , mà lại được hợp thành 1 nhịp điệu điều hòa từng điểm 1 .

Trong giới thiên nhiên là như thế , mà trong lịch sử loài người cũng 1 thế . Một hành động 1 chiều mà càng mạnh bao nhiêu , lại chỉ càng làm cho những lực lượng đối phương càng mạnh thêm bấy nhiêu .

Người đời phần đông không cho thế là đúng , nên thường có cái ảo vọng là nhiệt liệt đem 1 cái Phải nào để trừ tuyệt 1 cái Quấy nào ...Họ suy tưởng theo luân lí hình thức , nên cho rằng có là có . không là không , phải là phải , quấy là quấy ...Và luôn luôn như vậy . Họ chỉ nhìn thấy cái Tịnh của sự vật mà không để í đến cái Động của nó .

Thời gian diễn biến từ Có qua Không , từ Không qua Có , từ Phải qua Quấy , từ Quấy qua Phải . Hoặc mau lẹ như 1 cái nháy , 1 cái chớp ... hoặc trì trệ từ giờ , từ ngày , từ tháng , từ năm hay từ thế kỉ , trước sau gì cũng phải có . Nhưng khi biến thể thì đột ngột lắm , như nước biến ra hơi , thì lúc biến không thể nhận thấy kịp ... Bởi vậy mới có những câu rất mâu thuẫn như “ có là không “, “sống là chết “.”phải là quấy “ .” động là tịnh “ ...

Luật Phản Phục là những định luật bất di bất dịch chi phối tất cả mọi biến thiên trên đời . Lão Tử gọi nó là “Thường “ , nghĩa là những cài gì không bao giờ biến đổi .

&&&

Chữ Phản và Phục , cũng có nghĩa là trở về Bản Tính , trở về cái Đạo nơi mình .

Chương 16 có viết :” Đến chỗ cùng cực Hư Không là giữ cững được trong cái Tịnh . Vạn vật cùng đều sinh ra . Ta lại thấy nó trở về gốc . Ôi ! Mọi vật trùng trùng , đều trở về cội rễ của nó . Trở về cội rễ gọi là Tịnh . Ấy gọi là Phục Mạng . Phục mạng gọi là Thường .

( Trí hư cực , thủ tĩnh đốc , vạn vật tịnh tác , ngô dĩ quan phục . Phù vật vân vân , các phục qui kì căn . Qui căn viết Tịnh , thị vị viết Phục Mạng . Phục Mạng viết Thường ) .

Cội rễ của Vạn Vật , tức là Đạo thì Tịnh . Nhưng Tịnh cực thì Dương sinh , đó là đầu mối của Đạo vậy . Các vật sau khi phóng ra ... đều rồi trở về nguồn gốc của nó cả , đó là cái “ động của Đạo “ .

Trở về ( Phục ) là “ trở về cội rễ . Chữ Mạng trong Phục Mạng có nghĩa là “ cái mà ta không thể cãi được “ đó là Đạo . Chữ Thường ở đây có nghĩa là Đạo Thường , tức là những nguyên lí bất di bất dịch mà bất cứ vật nào , người nào làm sai với con đường thiên diễn của nó sẽ đem tai họa lại cho mình và cho cả xã hội chung quanh mình .

&&&

Tóm lại , biết rõ cái luật Phản Phục ấy , thì không ai dám đi làm cái việc triệt để theo 1 cái Phải nào để trừ tuyệt cái Quấy tương đương của nó . Mà phải để ý coi chừng cái luật quân bình , luật Phản Phục nó không tha thứ 1 cái gì thái quá . Huống chi là mong mỏi thủ tiêu luôn cả phần đối đích của các cặp Mâu Thuẫn ấy .

Bởi vậy , bậc trị nước mà không hiểu hoặc không đếm xỉa đến cái luật Phản Phục trên đây , thường phải gặt lấy những kết quả tai hại trái với lòng mong ước của mình . Đừng mong đem cái Âm mà trừ tuyệt cái Dương , hay đem cái Dương mà trừ tuyệt cái Âm , dồn sự vật vào tình trạng “ Âm cô Dương tuyệt “ hay “ Dương cô Âm tuyệt “ mà gây tai họa cho con người .

Nếu khinh thường luật “Phản , Phục “ tức là luật Quân Bình , thì không khéo ta lại vô tình cố mà đè nén 1 việc gì lại sắp làm cho việc ấy chổi dậy mạnh hơn . Cố mà làm cho 1 việc gì yếu đi , lại sắp làm cho việc ấy hưng lên .

Như Lão Tử đã nói trước đây ở chương 36 . Và phải chăng , ta thường thấy ở những nơi đã mất tự do là những chỗ mà lòng người tha thiết ham muốn tự do hơn đâu tất cả . Như ta đã thấy sức dồn ép càng mạnh theo 1 chiều nào , là xui cho sức chống cự đối phương càng thêm mãnh liệt :” Vật cực tắc phản “

Nhà tâm lí học Carl G . Jung cho rằng :” Những cặp Mâu Thuẫn ấy chỉ ròng là những cuộc tranh chấp trong vòng nhân thế mà thôi . Nó ăn khớp với 1 cuộc thực nghiệm tâm linh đã nêu trong quyển Đạo Đức Kinh của Lão Tử rằng không có 1 cái Phải nào mà không có cái Quấy của nó .Hễ đâu có tín ngưỡng là có hoài nghi , mà hễ có hoài nghi là có tín ngưỡng . Hễ đâu có Đạo đức luân lí thì có sự cám dỗ sa ngã .

Riêng chỉ có những bậc Thánh mới có những cái nhìn đời quỉ quái tinh ma . Và chỉ có những kẻ độc tài mới là những tên nô lệ của những tên “ bồi phòng “ của họ . Khi xem xét kĩ tánh tình của chính ta đây , ta sẽ thấy không sao tránh khỏi được điều mà Lão Tử đã nói :” cao dĩ hạ vi cơ “ . Nghĩa là những cặp Mâu Thuẫn hạn chế lẫn nhau , và thật sự chúng chỉ là 1 .

Ta rất dễ thấy sự kiện này nơi những kẻ bị mặc cảm tự ti ... Triết Học Trung Hoa có đưa những cặp Mâu Thuẫn ấy lên hàng những nguyên lí Vũ Trụ và gọi chúng là Âm và Dương . Hễ cố mà chia rẽ chúng ra chừng nào thì thế lực của chúng lại càng tăng thêm lên chừng ấy . Nietzche nói :” Khi mà 1 côi cây mọc cao đụng đến Thiên đình , thì gốc nó cũng ăn luồng đến địa phủ . Thế nhưng , dù ở trên hay ở dưới , cũng đều chung 1 cội cây .


&&&

Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2008

tổn hữu dư bổ bất túc

Lão Tử Tinh Hoa –Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Tổn Hữu Dư Bổ Bất Túc .

&&&

Dịch Kinh bàn về quẻ Khiêm , nơi lời Thoán có nói :” Khiêm hanh , thiên đạo hạ tế nhi quang minh , địa đạo ty nhi thượng hành , thiên đạo khuy danh nhi ích Khiêm . Địa Đạo biến doanh nhi lưu Khiêm. Quỉ thần hại doanh nhi phúc Khiêm . Nhân đạo ố doanh nhi hiếu Khiêm . Khiêm tốn nhi quang , ty nhi bất khả du , quân tử chi chung dã “.

(Khiêm thì hanh thông , đạo Trời giúp xuống mà làm cho sáng sủa . Đạo Đất thấp mà lên cao . Đạo Trời làm vơi chỗ đầy mà thêm chỗ Khiêm . Đạo dất làm nghiêng đổ chỗ đầy mà tụ vào chỗ Khiêm . Quỉ thần làm hại chỗ đầy mà làm ưa thích chỗ Khiêm . Khiêm thì cao mà sáng , thấp nhưng không thể vượt qua , đó là chỗ sau chót của người quân tử .)

Khiêm , có nghĩa là nhún nhường , từ tốn , tự hạ mình , thấy mình thấp kém , thiếu thốn...

Dù là Thiên đạo , Địa đạo , Nhân đạo hay Quỉ Thần ... cũng đều ghét đầy ( doanh ) và ưa thích cái vơi cái thiếu ( Khiêm ) . Cho nên lời tượng cũng nói :” Địa trung hữu Sơn , Khiêm .quân tử dĩ suy đa ích quả , xứng vật bình thi “

( Trong đất có núi là quẽ Khiêm , người quân tử coi đó mà rút bớt chỗ nhiều , thêm vào chỗ ít , cân lường các vật , làm cho sự ban bố được thăng bằng ) .

Trình Tử giải như thế này :”... núi mà lại ở dưới thấp , đó là cao thì hạ xuống , thấp thì nâng lên , thấy rõ cái nghĩa nén chỗ cao , bù chỗ thấp , bớt chỗ thái quá , thêm vào chỗ bất cập . Đem ra mà thi thố công việc , thì bớt của chỗ nhiều , tăng thêm cho chỗ ít , cân nhắc sự nhiều ít của các vật mà làm cho sự ban bố cho được đồng đều , khiến cho mọi việc được thăng
bằng .

Như thế , ta thấy rằng quẻ Khiêm dùng để diễn đạt luật quân bình của Trời Đất .

Chương 77, Đạo Đức Kinh Lão Tử cũng nói :” Thiên chi Đạo , kì du trương cung dư ? Cao giả ức chi , hạ giả cử chi . Hữu dư giả tổn chi , bất túc giả bổ chi .. Thiên chi Đạo : Tổn hữu dư bổ bất túc . Nhơn chi đạo , tắc bất nhiên : tổn bất túc dĩ phụng hữu dư ...”

( Đạo Trời ư ? Khác nào cây cung giương lên : chỗ cao thì ép xuống , chỗ thấp thì nâng lên . Có dư thì bớt đi , hụt thì bù vào . Đạo của Trời : bớt chỗ dư , bù chỗ thiếu .Đạo của người thì không vậy : bớt chỗ thiếu , bù chỗ dư ...)
Nhìn kĩ hiện tượng tự nhiên trong Trời Đất sẽ thấy rõ ràng luật ấy .
Do cái luật bớt đi bù lại giữa cái dư cái thiếu để lập lại quân bình mới có sự động biến trong Vũ Trụ , bằng không vạn vật sẽ rơi vào chỗ tịch nhiên yên lặng . Khoa học ngày nay cũng không nói khác hơn :” Trong Vũ Trụ , có những vật nóng và vật lạnh ... Các tinh tú cứ lạnh dần dần mãi , nghĩa là chúng bớt sức nóng của chúng để chuyển sang các điểm sáng khác trên thiên không .

Vậy thì , các tinh tú càng lạnh thêm bao nhiêu thì các khoảng không gian kia lại càng nóng thêm lên . Ấy là 1 cuộc diễn tiến tuy chậm chạp , không cảm thấy được , nhưng là lẽ tất nhiên phải có , không sao tránh khỏi được . Những vật nóng càng mất sức nóng bao nhiêu , thì các vật lạnh càng chia được sức nóng ấy bấy nhiêu , và như vậy nhiệt độ có khuynh hướng đi đến sự quân bình , nghĩa là bằng nhau .

Ngày mà tât cả mọi vật trong Vũ Trụ cùng đồng 1 nhiệt độ như nhau thì sẽ không còn có sự trao đổi khí lực nữa , tức là không còn có sự động nữa , đó là ngày tận thế rồi vậy .

&&&&&&&

Ghi nhận :
Xã hội càng phân chia giàu nghèo , thì mầm mống loạn đã có sẵn . Phải ngăn ngừa từ ban đầu . Chứ khi nước đến chân mới nhẩy , thì đã hỏng rồi . Dân đã khổ đau nhiều rồi .
Dù có muốn sửa đổi , thì cũng mất rất nhiều thời gian và tiền bạc .
Lại 1 vụ tham ô nữa xẩy ra , chỉ vì không ngăn ngừa ngay từ đầu . bây giờ tiền mất tật mang . Chả còn gì nữa mà nói .
Hơn 90 % ý kiến tán thành vị chủ tịch hội đồng quản trị này ( Cosevco ) . Như thế thì ta đoán ra rằng , 90 % người này là tham ô , móc ngoặc , theo đóm ăn tàn . Biết ông này không đủ tư cách , mà vẫn bầu chọn , là sao ?. Hỏi tức là trả lời .

&&&

Hơn nữa vụ rét đậm miền bắc , cho thấy đa số dân không có áo , lại không có dép mà đi ? Ăn thì chắc cũng rất thiếu thốn ? Thì thử hỏi công bình ở đâu ? Các thành phố , ăn chơi trụy lạc , khiêu vũ , thuốc lắc tràn ngập ? tại sao không chia sớt cho người nghèo ? Mà chỉ bỏ túi riêng , cho con cái Cậu Ấm Cô Chiêu , dư tiền xài hoang phí ?
Đó là sự tham ô . Cần phải tiêu diệt ngay .
Những việc cần làm ngay . Mới hy vọng phục hồi dân VN . Xóa đói giảm nghèo !
&&&