Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Tam Bửu 2
&&&
Của báu thứ 3 của Lão Tử , là “không dám đứng trước thiên hạ “ .Người đời thường vịn vào dây mà cho ông là hèn yếu , là chủ trương thoái hóa , chống với tiến bộ .
Thật có đúng như vậy , nếu người ta quan niệm “ tiến bộ “ là tranh hơn tranh thua để tìm cách đứng trên đầu trên cổ đồng loại mới hả lòng cho , thì Lão Tử quả thật là người chủ trương không nên tiến bộ kiểu ấy .Và như vậy , cho rằng ông chủ trương phản tiến hóa cũng không sao .
Huống chi Lão Tử cho rằng mỗi người mỗi vật đều mang nơi mình 1 cái Lí độc nhất vô nhị . Lí ấy đồng với Đạo . Theo ông thì “ phản giả Đạo chi động “ Nghĩa là cái động của Đạo là trở về . Trở về là “phục qui kì căn “ ( trở về nguồn gốc ) tức là trở về với cái Đạo nơi mình . Như vậy , thì thuyết tiến hóa chủ trương sự trở nên , nghĩa là trở nên 1 cái gì mà mình chưa có bằng sự chiếm đoạt , thu trữ ngoại vật là trái với cái chủ chỉ của Lão Tử rất xa vậy .
Còn bảo rằng :” không dám đứng trước thiên hạ “ là hèn yếu lại cáng không đúng .Thích đứng trước và đứng trên thiên hạ phãi chăng là cái tật chung của những con người bị tâm cảm tự ti ? Trái lại , kẻ mà nơi trong đầy đủ lại không thích đứng trên thiên hạ mà trái lại hay nhún nhường là khác . Cùng 1 nghĩa với những câu :” tri kì hùng , thủ kì thư , tri kì bạch , thủ kì hắc . Tri kì vinh , thủ kì nhục “ ( Mình là con đực , hãy làm như con cái . Mình là trắng , hãy làm như đen . Mình là vinh , hãy giữ làm nhục )
Như vậy đâu phải là hèn nhát , mà lại là 1 sự đại dũng trong đời . Kẻ thắng được lòng tự tôn tự đại , thắng được lòng ham danh hiếu thắng , đâu phải kẻ tầm thường mà làm được . “ Thắng nhân giả hữu lực , tự thắng giả cường “ ( Thắng người là kẻ có sức , nhưng thắng mình mới là người mạnh ) . Chương 66, ông nói : Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả , dĩ kì thiện hạ chi ... Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi , dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi . Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng , xử tiền nhi dân bất hại . Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm . Dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ . ( Sông biển sở dĩ làm đặng Vua trăm hang là vì nó khéo đứng dưới thấp ... Bởi vậy , muốn ngồi trên dân , hẳn nên lấy lời mà hạ mình . Muốn đứng trước dân , hẳn nên lấy mình để ra sau . vậy nên , bậc Thánh nhân ở trên mà dân không hay nặng , ở trước mà dân không thấy hại . Vì thế , thiên hạ không chán , lại còn đẩy tới trước .. Bởi đó không tranh nên thiên hạ không cùng tranh với đó được ) .
Lão Tử lấy sông biển để cụ thế hóa và minh chướng chủ trương “ không dám đứng trước thiên hạ “... Nếu muốn ngồi trên trên dân chúng hãy tự mình khiêm cung nhũn nhặn . Và nếu muốn cầm đầu nhân dân phải biết đứng đằng sau lưng họ . Đây là nguyên tắc xử thế điển hình của Lão Tử thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách của ông .
Cũng đồng 1 ý với câu “ hâu kì thân nhi thân tiên “ ( để thân ra sau mà thân ra trước ). Và “ quí dĩ tiện vi bổn , cao dĩ hạ vi cơ . Thị dĩ Hầu vương tự vị cô quả bất cốc . Thử dĩ kì tiện vi bổn da ? Phi hồ ?“ ( quí lấy tiện làm gốc , cao lấy thấp làm nền . Nên chi , hầu vương tự xưng là con côi , ít đức , không lành . Đó là lấy tiện làm gốc không phải vậy sao ? )
Bậc thánh nhân trị nước ngồi trên đầu nhân dân mà nhân dân không hay là mình ngồi trên đầu . Dẫn đạo nhân dân mà nhân dân không cảm thấy bàn tay của mình dẫn dắt . Là nhờ họ “ không dám đứng trước thiên hạ “. Bởi vậy người dân không chán , lại còn đưa mình lên ngôi cao . Bởi luôn luôn đứng dưới thấp và ở đằng sau nên người dân không có chỗ để tranh chấp , cho nên mới nói : “ Vì không tranh mà thiên hạ không sao cùng tranh với họ được “. Thuyết Bất Tranh của Lão Tử cũng do thuyết “bất cảm vi thiên hạ tiên “ mà ra .
Trị nước bằng Đạo Hữu Vi lại không thế :” thích ăn trên ngồi trước , thích lấy cái trị mà trị thiên hạ , thích lấy ý riêng mà can thiệp đến việc riêng tư của thiên hạ ... nên người dân cảm thấy mình bị trị quá rõ ràng . Do đó mà người dân mới sinh ra tâm trạng chống đối . Và nhân thế ,bậc trị nước phải lo đề phòng và củng cố uy quyền mình bằng luật lệ bủa giăng ... Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau , thì trước sau gì cũng sẽ có kẻ thắng người bại .
Ngày mà người dân cảm thấy sức nặng của người trên đè xuống , cảm thấy cái bàn tay dẫn dắt chỉ đạo quá gắt gao còng giữ , họ sẽ đâm chán , mong vứt quăng gánh nặng , vượt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng . Dùng đạo Hữu Vi mà trị nước là tạo ra cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta ...là nguy . Cho nên ông mới nói :”Xã hậu thả tiên ... tử hĩ ”. ( Bỏ sau để đứng trước , là chết vậy )
Thật vậy “ làm bậc trên thiên hạ mà thiếu tư cách thành thực khiêm nhu từ tốn ,việc gì cũng chỉ muốn ngồi trên đầu trên cổ dân mà trị , tức là làm nhục thiên hạ , thế mà không chết thì là 1 sự may mắn lạ thường “.
&&&
Tóm lại , sự Lão Tử nói :” ta có 3 vật báu “ thế là ta có thể hiểu 3 vật báu ấy là 3 cái chủ nghĩa lớn của ông đem ra xử thế . Mà chữ Từ là đứng đầu , 2 báu kia đều do đó mà ra cả . Kiệm , là cũng nhờ lòng Từ , không nỡ xa xỉ , mình có dư mà người người thốn thiếu .” Bất cảm vi thiên hạ tiên “ là không tranh dành cái việc làm nhục vào lòng người . Phải chăng cũng do lòng Từ mà có được cử chỉ quên mình ấy . Cho nên rút lại mà nói thì Từ là đầu mối của Đạo xử thế của ông .
Có người bảo rằng Từ đây cũng giống với thuyết Kiêm Ái . “ Bất cảm vi thiên hạ tiên “ giống với thuyết “Phi công “ .Và Kiệm giống với thuyết Tiết Dụng của Mặc Tử . Nhận xét thế là nông cạn . Chữ Từ của Lão Tử có 1 nguồn gốc siêu hình , còn chủ thuyết Kiêm ái của mặc Tử chỉ bắt nguồn ở vấn đề hình thức xã hội mà thôi . Ngay 1 chữ Từ ấy cũng đã thấy không thể cùng so sánh với nhau rồi . Các quan niệm kia đều theo đó mà suy ra không thể có sự so sánh cho được .
&&&
Chú thích :
Nên so sánh với ý nghĩa của quẻ Khiêm trong Dịch Kinh . Nội quái là Cấn ( sơn ) , ngoại quái là Khôn ( địa ) .
--- ---
--- ---
--- ---
--------
--- ---
--- ---
Địa Sơn Khiêm , là tượng núi cao mà mọc trong lòng đất thấp . Quẻ Khiêm thì nội quái là núi cao , ngoại quái là đất thấp . Nội là thực thể ( bên trong ) , ngoại là hình dung ( bên ngoài ) .
Người ta chỉ nhờ khéo ở chỗ thấp kém mà đức vượt lên cao .Đó là ý nghĩa của quẻ Khiêm .tức là Khiêm nhu từ tốn , mà có kẻ cho rằng Lão Tử đã mượn , để lập ra cái thuyết “ bất cảm vi thiên hạ tiên “ của ông .
Dịch Kinh nói “Khiêm hanh , quân tử hữu chung “ Quẻ Khiêm là hanh thông , người quân tử được sự sau cùng . Nho gia là Trình Tử nhân đó bàn rằng :” Có đức mà không tự nhận , gọi là Khiêm . Người ta lấy sự khiêm tốn xử sự thì đi đâu mà không hanh thông ?
“Quân tử hữu chung “ nghĩa là người quân tử chí ở khiêm tốn suốt lẽ , nên vui với mạng trời mà không cạnh tranh . Bên trong của họ đầy đủ cho nên tự mình nhún nhường , không khoe khoang , không khoa trương , yên lặng trong sự khiêm tốn suốt đời mà không đổi ; mình tự hạ mình mà người ta càng tôn lên . Mình tự che cho tối đi mà đức càng sáng tỏ , đó là người quân tử “ hữu chung “ .
Tính người thì ghen ghét kẻ tự mãn mà yêu thích người khiêm tốn . Khiêm là cái đức cao tột của người , cho nên thánh nhân nói kĩ để răn kẻ tự mãn và khuyến khích kẻ nhún nhường
Ở hào sơ lục lại nói :” Khiêm khiêm quân tử , dụng thiệp đại xuyên , cát “. ( hào sơ lục , người quân tử đã nhún lại nhún thêm , dùng sang sông lớn được , tốt )
Đã khiêm lại càng khiêm hơn nữa , nên gọi “khiêm khiêm “ tức là nếu biết cư xử cực kì thấp kém , thì mọi người cùng về với mình , dù đã qua sông lớn còn không lo hại , huống chi ở nơi bình địa mà xử thế được như vậy , có gì phải lo đến hậu hoạn .
Chu Tử nói :” Là hào nhu thuận ở dưới , là sự nhún nhường đến tột cùng , đó là nết của người quân tử “ .
&&&&&&&
Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2008
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét