Nhiều người kính nhi viễn chi , cho Lão Tử chỉ dùng , đọc khi nào ta hết đát ?
Nghĩa là khi về già , sắp về với Phật !
Bởi thế cho nên , Xã hội vẫn tham lam , con người vẫn tranh đấu , xâu xé nhau mà đoạt danh lợi .
Nếu ta đọc Lão Tử từ nhỏ , và thi hành , thì xã hội vẫn còn xài đèn dầu lạc , đi xe ngựa , học chữ Nho .
Vì không chấp nhận tiến bộ ? Dậm chân 1 chỗ , ai tiến mặc kệ , ta cứ uống nước sông
suối , mặc áo lá , chăn trâu cầy ruộng ?
Có phải vậy chăng ?
Thật đúng , vì cho tới bây giờ , chỉ 1 số ít người xem và đọc Lão Tử . Và lại hiểu sai về Lão Tử . Cho là lập dị ..v..v..
Và xã hội tiến bộ vô cùng ,vi tính chả hạn , ngồi 1 chỗ mà biết khắp thiên hạ ?
Máy bay tàu thủy , đưa ta du lịch khắp nơi .
Thực phẩm , y phục dồi dào , thuốc men dư thừa !
Nhưng , sau cùng , ta tự hỏi , như vậy có hạnh phúc , vui vẻ , khoan khoái chưa ?
Có đau khổ , thất vọng , không ?
Và bom rơi , khủng bố ? có an vui không ?
Tại sao như thế ? Ta không giàu có ư ? Thế giới no ấm quá xá ?
Bệnh tật , ung thư ? HIV ? Có chữa nổi không ?Tại sao có nó ?
Ta đã tiêu diệt bệnh tật rồi cơ mà ? Nó chui ra từ dâu ?
hãy nghi ngờ , hãy hỏi ... Mới hiểu rõ dâu là chân hạnh phúc ?
Thứ Sáu, 29 tháng 2, 2008
tri túc tri chỉ
Lão Tử Tinh hoa- Thu Giang Nguyễn Duy cần .
Tri Túc Tri Chỉ
&&&
Hai chữ Tri chỉ , tri túc là then chốt đạo xử thể của Lão Tử . Mà cũng là vấn đề khó khăn nhất . Biết dứng thì còn tương đối dễ ... chứ biết đủ thì phải lấy tiêu chuẩn nào mà qui định ? Nghĩa là biết đến đâu là đủ để mà ngừng lại cho kịp thời , cho vừa lúc ?
Ta nên để ý đến chủ trương của Lão Tử là Đạo . Đạo là gì ? Theo Lão Tử : Đạo , tức là cái luật Quân Bình của Vũ trụ , chi phối cả Vạn Vật , không cho ta có quyền làm 1 cái gì thái quá . Đạo, chủ trương và bao trùm vạn vật , luôn luôn có mặt trong tất cả mọi sự vạn vật . Nó có phận sự điều chỉnh lại những cái gì thái quá , vượt mực trung . Hễ “cao thì ép xuống , thấp thì nâng lên , dư thì bớt đi , hụt thì bù vào “ , đặng mà lập lại cái thế quân bình , không cho thiên hẳn về 1 bên nào cả của cái đòn cân Thị Phi , Thiện Ác ...
Ông nói :” Thiên chi đạo , tổn hữu dư , bổ bất túc “ ( Đạo trời thì bớt chỗ dư , bù chỗ thiếu ).
Trong đạo xử thế , quan trọng nhất là vấn đề Thị Phi .Thiện Ác . Sao là phải , sao là quấy ? Sao là Lành , sao là Dữ ? Lão Tử cho rằng :” Thiên hạ đều biết tốt là tốt , thì đã có xấu rồi . Đều biết lành là lành , thì đã có cái chẳng lành rồi . Bởi vậy , Có và Không cùng sanh . Khó và Dễ cùng thành . Ngắn và Dài cùng sánh . Cao và Thấp cùng chiều . Giọng và Tiếng cùng họa .Trước và Sau cùng theo .( chương 11)
Rồi ông lại nói :”Phản giả , Đạo chi Động “ ( cái động của đạo là phản biến ). Cái Phải biến thành cái Quấy , cái Lành biến thành cái Dữ , cái Vinh biến thành cái Nhục ... ( Héraclite cũng nói :” cũng chỉ là 1 sự vật ở nơi : ta : sống và chết , thức và ngủ , trẻ và già . Những cái sau này , khi biến động lại trở thành những cái trước kia , và những cái trước kia khi phản biến lại trở thành những cái sau này ) . Ông lại nói :” Lạnh trở thành nóng , nóng trở thành lạnh , ướt trở thành khô , khô trở thành ướt .
Tức là chỗ mà Kinh Dịch bảo :” vật cực tắc phản , vật cùng tắc biến “ , nhưng hễ biến thì biến thành cái mâu thuẫn của nó . Tức là hễ Dương cực thì Âm sinh , Âm cực thì Dương sinh . Như trong Dịch Kinh đã nói , đó là cái luật bất di bất dịch của Tự Nhiên của Đạo .
Thật vậy , tùy trường hợp riêng biệt của mỗi người , ta thường thấy 1 chất thuốc , với 1 độ nào , nó là thuốc bổ .Mà với 1 độ nào , nó sẽ thành thuốc độc .Việc đời cũng thế , cái mà ta gọi là phải , chỉ có thể phải ở 1 mực độ nào , trong những trường hợp nào .Chứ không phải nó luôn luôn là phải , bất cứ ở trường hợp nào .
Như việc ăn , tự nó không phải mà cũng không quấy . Khi đói , thì ăn là phải , nhưng cũng chỉ phải ở 1 mực độ nào , ở những trường hợp nào mà thôi . nếu ăn quá độ , hay ăn không phải lúc , thì không thể còn gọi là “phải “ được nữa .
Cho nên , làm cái Phải nào , hoặc theo 1 cái Phải nào , cần phải xem xét trước cái lúc mà cái Phải ấy , vượt mực Trung biến thành cái Quấy . Tức là phải biết xem xét coi cái Phải ấy nên dừng nơi đâu , để nó đừng vượt mực Trung để biến thành cái Quấy .Đó là “biết dừng lại “ ( Tri Chỉ ) vì đã biết rõ đến đâu là dủ ... Tri Túc .
Chương 44 Lão Tử nói :” Danh dữ thân thục thân , thân dữ hóa thục da ; đắc dữ vong thục bệnh ? Thị cố thậm ái tất thậm phí , đa tàng tất hậu vong . Tri túc bất nhục , tri chỉ bất đãi ... khả dĩ trường cửu “
( Danh và Thân , cái nào quí hơn ? Thân và Của , cái nào trọng hơn ? Đặng và Mất , cái nào khổ hơn ? Vậy nên , thương nhiều ắt tổn nhiều , chứa nhiều ắt mất nhiều . Biết đủ , không nhục . Biết dừng không nguy , và có thể lâu dài ) .
Qua chương 46 ông nói thêm : ” Họa mạc đại ư bất tri túc , cữu mạc đại ư dục đắc . Cố tri túc chi túc , thường túc hĩ “
( Không họa nào lớn bằng không biết đủ , không hại nào to bằng muốn đặng . Bởi vậy , biết đủ trong cái đủ , mới luôn luôn đủ .)
Nên để ý nhất câu “ tri túc chi túc “ ( biết đủ và biết dừng ) lại nơi đó , đó là tất cả sự khôn ngoan sáng suốt của con người .
Có kẻ cho rằng câu này của Lão Tử làm ngăn cản bước “ tiến bộ “ của loài người , nhưng thực sự nó là câu châm ngôn vàng ngọc để “lánh nguy cầu an “ và mưu được hạnh phúc cho cá nhân cũng như đoàn thể , tránh cho con người tất cả tội ác do lòng tham muốn đèo bòng vô tận xui ta làm con thiêu thân cho vị Thần Tiến Bộ và lòng tham dục vô bờ bến của con người .
Thái quá cũng như bất cập , đều không hay cả . Nhưng theo Lão Tử , thì thà bất cập hơn là thái quá , vì thái quá bao giờ cũng nguy hiểm . Bất cập thì sẽ còn phát triển mạnh thêm và gây nhiều hứng thú , còn thái quá thì là dọn đường cho sự phản biến ngược với kết quả mình mong muốn :” Tương dục phế chi tất cố hưng chi “
&&&&&&
Tri Túc Tri Chỉ
&&&
Hai chữ Tri chỉ , tri túc là then chốt đạo xử thể của Lão Tử . Mà cũng là vấn đề khó khăn nhất . Biết dứng thì còn tương đối dễ ... chứ biết đủ thì phải lấy tiêu chuẩn nào mà qui định ? Nghĩa là biết đến đâu là đủ để mà ngừng lại cho kịp thời , cho vừa lúc ?
Ta nên để ý đến chủ trương của Lão Tử là Đạo . Đạo là gì ? Theo Lão Tử : Đạo , tức là cái luật Quân Bình của Vũ trụ , chi phối cả Vạn Vật , không cho ta có quyền làm 1 cái gì thái quá . Đạo, chủ trương và bao trùm vạn vật , luôn luôn có mặt trong tất cả mọi sự vạn vật . Nó có phận sự điều chỉnh lại những cái gì thái quá , vượt mực trung . Hễ “cao thì ép xuống , thấp thì nâng lên , dư thì bớt đi , hụt thì bù vào “ , đặng mà lập lại cái thế quân bình , không cho thiên hẳn về 1 bên nào cả của cái đòn cân Thị Phi , Thiện Ác ...
Ông nói :” Thiên chi đạo , tổn hữu dư , bổ bất túc “ ( Đạo trời thì bớt chỗ dư , bù chỗ thiếu ).
Trong đạo xử thế , quan trọng nhất là vấn đề Thị Phi .Thiện Ác . Sao là phải , sao là quấy ? Sao là Lành , sao là Dữ ? Lão Tử cho rằng :” Thiên hạ đều biết tốt là tốt , thì đã có xấu rồi . Đều biết lành là lành , thì đã có cái chẳng lành rồi . Bởi vậy , Có và Không cùng sanh . Khó và Dễ cùng thành . Ngắn và Dài cùng sánh . Cao và Thấp cùng chiều . Giọng và Tiếng cùng họa .Trước và Sau cùng theo .( chương 11)
Rồi ông lại nói :”Phản giả , Đạo chi Động “ ( cái động của đạo là phản biến ). Cái Phải biến thành cái Quấy , cái Lành biến thành cái Dữ , cái Vinh biến thành cái Nhục ... ( Héraclite cũng nói :” cũng chỉ là 1 sự vật ở nơi : ta : sống và chết , thức và ngủ , trẻ và già . Những cái sau này , khi biến động lại trở thành những cái trước kia , và những cái trước kia khi phản biến lại trở thành những cái sau này ) . Ông lại nói :” Lạnh trở thành nóng , nóng trở thành lạnh , ướt trở thành khô , khô trở thành ướt .
Tức là chỗ mà Kinh Dịch bảo :” vật cực tắc phản , vật cùng tắc biến “ , nhưng hễ biến thì biến thành cái mâu thuẫn của nó . Tức là hễ Dương cực thì Âm sinh , Âm cực thì Dương sinh . Như trong Dịch Kinh đã nói , đó là cái luật bất di bất dịch của Tự Nhiên của Đạo .
Thật vậy , tùy trường hợp riêng biệt của mỗi người , ta thường thấy 1 chất thuốc , với 1 độ nào , nó là thuốc bổ .Mà với 1 độ nào , nó sẽ thành thuốc độc .Việc đời cũng thế , cái mà ta gọi là phải , chỉ có thể phải ở 1 mực độ nào , trong những trường hợp nào .Chứ không phải nó luôn luôn là phải , bất cứ ở trường hợp nào .
Như việc ăn , tự nó không phải mà cũng không quấy . Khi đói , thì ăn là phải , nhưng cũng chỉ phải ở 1 mực độ nào , ở những trường hợp nào mà thôi . nếu ăn quá độ , hay ăn không phải lúc , thì không thể còn gọi là “phải “ được nữa .
Cho nên , làm cái Phải nào , hoặc theo 1 cái Phải nào , cần phải xem xét trước cái lúc mà cái Phải ấy , vượt mực Trung biến thành cái Quấy . Tức là phải biết xem xét coi cái Phải ấy nên dừng nơi đâu , để nó đừng vượt mực Trung để biến thành cái Quấy .Đó là “biết dừng lại “ ( Tri Chỉ ) vì đã biết rõ đến đâu là dủ ... Tri Túc .
Chương 44 Lão Tử nói :” Danh dữ thân thục thân , thân dữ hóa thục da ; đắc dữ vong thục bệnh ? Thị cố thậm ái tất thậm phí , đa tàng tất hậu vong . Tri túc bất nhục , tri chỉ bất đãi ... khả dĩ trường cửu “
( Danh và Thân , cái nào quí hơn ? Thân và Của , cái nào trọng hơn ? Đặng và Mất , cái nào khổ hơn ? Vậy nên , thương nhiều ắt tổn nhiều , chứa nhiều ắt mất nhiều . Biết đủ , không nhục . Biết dừng không nguy , và có thể lâu dài ) .
Qua chương 46 ông nói thêm : ” Họa mạc đại ư bất tri túc , cữu mạc đại ư dục đắc . Cố tri túc chi túc , thường túc hĩ “
( Không họa nào lớn bằng không biết đủ , không hại nào to bằng muốn đặng . Bởi vậy , biết đủ trong cái đủ , mới luôn luôn đủ .)
Nên để ý nhất câu “ tri túc chi túc “ ( biết đủ và biết dừng ) lại nơi đó , đó là tất cả sự khôn ngoan sáng suốt của con người .
Có kẻ cho rằng câu này của Lão Tử làm ngăn cản bước “ tiến bộ “ của loài người , nhưng thực sự nó là câu châm ngôn vàng ngọc để “lánh nguy cầu an “ và mưu được hạnh phúc cho cá nhân cũng như đoàn thể , tránh cho con người tất cả tội ác do lòng tham muốn đèo bòng vô tận xui ta làm con thiêu thân cho vị Thần Tiến Bộ và lòng tham dục vô bờ bến của con người .
Thái quá cũng như bất cập , đều không hay cả . Nhưng theo Lão Tử , thì thà bất cập hơn là thái quá , vì thái quá bao giờ cũng nguy hiểm . Bất cập thì sẽ còn phát triển mạnh thêm và gây nhiều hứng thú , còn thái quá thì là dọn đường cho sự phản biến ngược với kết quả mình mong muốn :” Tương dục phế chi tất cố hưng chi “
&&&&&&
Thứ Tư, 27 tháng 2, 2008
bất tranh
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Bất Tranh
&&&
Cũng như phần đông người ta đã ngộ nhận 2 chữ Vô Vi là không làm gì cả , phần đông cũng lại ngộ nhận 2 chữ Bất Tranh và cho là không tranh đấu hay không dám tranh đấu , nghĩa là yếu hèn , nhút nhát . Thậm chí Ngô Tất Tố và Nguyễn Đức Tịnh , trong quyển Lão tử của các ông , còn viết : ” Người ta không thể hiểu rằng : không tranh với quân địch thì làm sao thắng với quân địch ? “ Nói thế là không hiểu gì về cái đạo Bất Tranh của Lão Tử , lại cũng không hiểu gì cả về binh pháp .
Chương 68 , ông nói :” Thiện vi sĩ giả bất vũ , thiện chiến giả bất nộ , thiện thắng giả bất dữ . Thiện dụng nhơn giả vi chi hạ , thị vị Bất Tranh chi đức “. ( Người tướng giỏi không dùng vũ lực , người chiến đấu giỏi không giận dữ , khéo thắng địch là không tranh với đó . Khéo dùng người là hạ mình giúp đó , đó là cái đức của sự không tranh ).
Đây là chủ trương Vô Vi , trong phép tranh đấu . Nên để ý đến chữ Thiện của ông dùng : Thiện đây , tức là sự khéo léo , tài giỏi ... Bậc tướng tài giỏi tranh đấu mà không cần phải dùng đến vũ lực . Người chiến đấu tài giỏi là không cần dùng đến sự tranh đấu mà thắng địch ... Trần Trụ trong quyển “ Lão Tử dữ Trang Tử “ nói :” Thiện vi sĩ giả , kì thực dã , bất vũ giả kì mạo dã ; thiện chiến giả kì thực dã , bất nộ giả kì mạo dã ; thiện thắng địch giả kì thực dã , bất dữ giả kì mạo dã “.
Câu trên của Lão Tử có thể giải thích như vầy :” Kẻ làm tướng mà tài giỏi thì không phải dùng đến vũ lực ... Tài giỏi đó là thực , không dùng đến vũ lực , đó là cái bề ngoài của nó . Thiện chiến là thực , mà điềm đạm không tỏ sắc giận đó là cái dáng bên ngoài . Thắng thật khéo bên địch là thực , còn không cùng tranh với địch , đó là cái dáng bên ngoài ...
Như vậy , ta thấy rằng Lão Tử , tuy đề xướng chủ nghĩa bất tranh , nhưng với 2 chữ Thiện Thắng đủ cho ta biết rằng chữ bất tranh chỉ là phương pháp đấu chiến , mà chiến thắng mới thật là mục đích .
Câu “ Phù duy bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “.( Chỉ vì không tranh , nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình , đủ minh chứng rằng người tướng giỏi đâu phải là người dùng đến vũ lực để đánh người trước . Kẻ khéo nhất trong sự thắng kẻ địch là không cần tranh với họ mà vẫn thắng họ 1 cách dễ dàng ...
Đó là phương pháp dùng nhu mà thắng cương , dùng nhược mà thắng cường . Những nguyên tắc chánh trong phép dùng nhu thuật .Rõ rệt nhất là ở chương 69 ông nói :” Dụng binh hữu ngôn , ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách , bất cảm tiến thốn nhi thối xích .Thị vị hành vô hành , nhương vô tí , chấp vô binh , nhưng vô địch . Họa mạc đại ư khinh địch , khinh địch cư táng ngô bửu . Cố kháng binh tương gia , ai giả thắng hĩ “.
Dụng binh có câu :” Thà làm khách hơn làm chủ , thà thối 1 bước hơn tiến 1 tấc . Đó gọi là bước mà không đi tới , nhượng mà không xăn tay , bắt giặc mà không đối địch , cầm giữ mà không binh khí . Không họa nào lớn bằng khinh địch . Khinh địch thì mất của báu . Nên 2 bên giao binh kẻ nhường là thắng )
Phải chăng ai đã từng thao luyện theo nhu thuật hay nhu đạo đều nhìn thấy đây là những nguyên tắc chánh của môn vũ thuật ấy .Công dụng của cái Hư , cái Không trong binh pháp đâu phải là nhỏ và tầm thường .
Tôn Tử nói :” Bách chiến bách thắng , phi thiện chi thiện giả dã , bất chiến nhi khuất nhơn chi binh , thiện chi thiện giả dã “ . ( Trăm trận đánh , trăm trận được , chưa phải là người giỏi trong những người giỏi . Không đánh mà làm khuất phục được quân của người , ấy mới là người giỏi trong những người giỏi ) .
Phải chăng cũng cùng 1 ý với Lão Tử trong câu :” Thiện vi sĩ giả bất vũ , thiện thắng địch giả bất dữ ...”( Người tướng giỏi không dùng đến vũ lực ... người khéo thắng được địch là không cùng tranh với đó ). Bởi vậy , Bất Tranh của Lão Tử là phép cầm quân cao nhất ...trong binh pháp , mà cũng là phép xử thế cao nhất trong đạo trị nước .
Phép “ đề kháng bất bạo động “ của Gandhi đã làm khuynh đảo 1 đế quốc mạnh nhất của Âu Tây không đủ là 1 kinh nghiệm cụ thể của phương pháp “ bất tranh nhi thiện thắng “ của Lão Tử ư ? Đó cũng là phép dùng “ nhu nhược thắng cương cướng “ mà ông thường khuyên ta vậy .
&&&
Thuyết Bất Tranh lại còn 1 nghĩa nữa về Chánh trị là “ dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ .
Là nghĩa làm sao ? Chương 66 , ông nói :” dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi , dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi . Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng , xử tiền nhi dân bất hại . Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm . Dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ .
( Muốn ngồi trên dân , hẳn nên lấy lời nhỏ nhẹ mà hạ mình . Muốn đứng trước dân , hẳn nên lấy mình để ra sau .Vậy nên Thánh Nhân ở trên mà dân không hay nặng , ở trước mà dân không thấy bị khuất . Và nhờ thế mà thiên hạ không chán , lại còn đẩy tới trước . Là bởi đó không tranh , nên thiên hạ không cùng tranh với đó được )
Bậc Thánh Nhân trị nước , ngồi trên đầu dân mà dân không hay có mình ngồi trên đầu , dẫn đạo dân mà dân không cảm thấy bàn tay của mình dắt dẫn . Bởi vậy , người dân không chán , lại còn đẩy tới trước . Bởi đó không tranh , nên thiên hạ không cùng tranh với đó được .
Thật vậy , bậc Thánh Nhân trị nước , ngồi trên đầu dân mà dân không hay có mình ngồi trên đầu , dẫn đạo dân mà dân không cảm thấy bàn tay mình dắt dẫn . Bởi vậy, người dân không chán lại đưa đẩy lên ngôi cao ...
Là vì Thánh Nhân trị nước bằng Đạo Vô Vi . Luôn luôn đứng dưới thấp , ở đàng sau thì người dân còn chỗ nào để cùng tranh chấp , bởi vậy “ vì không tranh nên thiên hạ không sao cùng tranh vời họ được “.
Trị nước bằng đạo Hữu Vi lại không phải thế :” thường hay can thiệp đến việc dân 1 cách qua rõ ràng , nên người dân cảm thấy là bị trị . Do đó mới có sanh ra tâm trạng chống đối , và nhân thế bậc trị nước phải lo đề phòng để củng cố uy quyền bằng pháp lệ bủa giăng ...Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau , thì trước sau sẽ có kẻ thắng người bại . Ngày mà người dân cảm thấy sức nặng của người trên đè xuống , cảm thấy cái bàn tay đát dẫn chỉ đạo quá gắt gao còng giữ , họ sẽ đâm chán , mong vứt quăng gánh nặng , vượt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng .
Dùng cái đạo Hữu Vi mà trị nước là tạo cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta ...là nguy vậy .
&&&&&
ghi nhận :
làm sao cho công nhân hài lòng với công việc và lương bổng
dân ngu không lo sợ đói , nhà cửa đầy đủ
học sinh cố học tập
thì nhà nước khỏi phải lo theo dõi kìm kẹp
không lo trừng trị trộm cướp , không lo nạn hóa chất thực phẩm
ô nhiễm môi trường
thì thật là hạnh phúc
&&&
nhưng chỉ là mơ thôi...
Bất Tranh
&&&
Cũng như phần đông người ta đã ngộ nhận 2 chữ Vô Vi là không làm gì cả , phần đông cũng lại ngộ nhận 2 chữ Bất Tranh và cho là không tranh đấu hay không dám tranh đấu , nghĩa là yếu hèn , nhút nhát . Thậm chí Ngô Tất Tố và Nguyễn Đức Tịnh , trong quyển Lão tử của các ông , còn viết : ” Người ta không thể hiểu rằng : không tranh với quân địch thì làm sao thắng với quân địch ? “ Nói thế là không hiểu gì về cái đạo Bất Tranh của Lão Tử , lại cũng không hiểu gì cả về binh pháp .
Chương 68 , ông nói :” Thiện vi sĩ giả bất vũ , thiện chiến giả bất nộ , thiện thắng giả bất dữ . Thiện dụng nhơn giả vi chi hạ , thị vị Bất Tranh chi đức “. ( Người tướng giỏi không dùng vũ lực , người chiến đấu giỏi không giận dữ , khéo thắng địch là không tranh với đó . Khéo dùng người là hạ mình giúp đó , đó là cái đức của sự không tranh ).
Đây là chủ trương Vô Vi , trong phép tranh đấu . Nên để ý đến chữ Thiện của ông dùng : Thiện đây , tức là sự khéo léo , tài giỏi ... Bậc tướng tài giỏi tranh đấu mà không cần phải dùng đến vũ lực . Người chiến đấu tài giỏi là không cần dùng đến sự tranh đấu mà thắng địch ... Trần Trụ trong quyển “ Lão Tử dữ Trang Tử “ nói :” Thiện vi sĩ giả , kì thực dã , bất vũ giả kì mạo dã ; thiện chiến giả kì thực dã , bất nộ giả kì mạo dã ; thiện thắng địch giả kì thực dã , bất dữ giả kì mạo dã “.
Câu trên của Lão Tử có thể giải thích như vầy :” Kẻ làm tướng mà tài giỏi thì không phải dùng đến vũ lực ... Tài giỏi đó là thực , không dùng đến vũ lực , đó là cái bề ngoài của nó . Thiện chiến là thực , mà điềm đạm không tỏ sắc giận đó là cái dáng bên ngoài . Thắng thật khéo bên địch là thực , còn không cùng tranh với địch , đó là cái dáng bên ngoài ...
Như vậy , ta thấy rằng Lão Tử , tuy đề xướng chủ nghĩa bất tranh , nhưng với 2 chữ Thiện Thắng đủ cho ta biết rằng chữ bất tranh chỉ là phương pháp đấu chiến , mà chiến thắng mới thật là mục đích .
Câu “ Phù duy bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “.( Chỉ vì không tranh , nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình , đủ minh chứng rằng người tướng giỏi đâu phải là người dùng đến vũ lực để đánh người trước . Kẻ khéo nhất trong sự thắng kẻ địch là không cần tranh với họ mà vẫn thắng họ 1 cách dễ dàng ...
Đó là phương pháp dùng nhu mà thắng cương , dùng nhược mà thắng cường . Những nguyên tắc chánh trong phép dùng nhu thuật .Rõ rệt nhất là ở chương 69 ông nói :” Dụng binh hữu ngôn , ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách , bất cảm tiến thốn nhi thối xích .Thị vị hành vô hành , nhương vô tí , chấp vô binh , nhưng vô địch . Họa mạc đại ư khinh địch , khinh địch cư táng ngô bửu . Cố kháng binh tương gia , ai giả thắng hĩ “.
Dụng binh có câu :” Thà làm khách hơn làm chủ , thà thối 1 bước hơn tiến 1 tấc . Đó gọi là bước mà không đi tới , nhượng mà không xăn tay , bắt giặc mà không đối địch , cầm giữ mà không binh khí . Không họa nào lớn bằng khinh địch . Khinh địch thì mất của báu . Nên 2 bên giao binh kẻ nhường là thắng )
Phải chăng ai đã từng thao luyện theo nhu thuật hay nhu đạo đều nhìn thấy đây là những nguyên tắc chánh của môn vũ thuật ấy .Công dụng của cái Hư , cái Không trong binh pháp đâu phải là nhỏ và tầm thường .
Tôn Tử nói :” Bách chiến bách thắng , phi thiện chi thiện giả dã , bất chiến nhi khuất nhơn chi binh , thiện chi thiện giả dã “ . ( Trăm trận đánh , trăm trận được , chưa phải là người giỏi trong những người giỏi . Không đánh mà làm khuất phục được quân của người , ấy mới là người giỏi trong những người giỏi ) .
Phải chăng cũng cùng 1 ý với Lão Tử trong câu :” Thiện vi sĩ giả bất vũ , thiện thắng địch giả bất dữ ...”( Người tướng giỏi không dùng đến vũ lực ... người khéo thắng được địch là không cùng tranh với đó ). Bởi vậy , Bất Tranh của Lão Tử là phép cầm quân cao nhất ...trong binh pháp , mà cũng là phép xử thế cao nhất trong đạo trị nước .
Phép “ đề kháng bất bạo động “ của Gandhi đã làm khuynh đảo 1 đế quốc mạnh nhất của Âu Tây không đủ là 1 kinh nghiệm cụ thể của phương pháp “ bất tranh nhi thiện thắng “ của Lão Tử ư ? Đó cũng là phép dùng “ nhu nhược thắng cương cướng “ mà ông thường khuyên ta vậy .
&&&
Thuyết Bất Tranh lại còn 1 nghĩa nữa về Chánh trị là “ dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ .
Là nghĩa làm sao ? Chương 66 , ông nói :” dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi , dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi . Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng , xử tiền nhi dân bất hại . Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm . Dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ .
( Muốn ngồi trên dân , hẳn nên lấy lời nhỏ nhẹ mà hạ mình . Muốn đứng trước dân , hẳn nên lấy mình để ra sau .Vậy nên Thánh Nhân ở trên mà dân không hay nặng , ở trước mà dân không thấy bị khuất . Và nhờ thế mà thiên hạ không chán , lại còn đẩy tới trước . Là bởi đó không tranh , nên thiên hạ không cùng tranh với đó được )
Bậc Thánh Nhân trị nước , ngồi trên đầu dân mà dân không hay có mình ngồi trên đầu , dẫn đạo dân mà dân không cảm thấy bàn tay của mình dắt dẫn . Bởi vậy , người dân không chán , lại còn đẩy tới trước . Bởi đó không tranh , nên thiên hạ không cùng tranh với đó được .
Thật vậy , bậc Thánh Nhân trị nước , ngồi trên đầu dân mà dân không hay có mình ngồi trên đầu , dẫn đạo dân mà dân không cảm thấy bàn tay mình dắt dẫn . Bởi vậy, người dân không chán lại đưa đẩy lên ngôi cao ...
Là vì Thánh Nhân trị nước bằng Đạo Vô Vi . Luôn luôn đứng dưới thấp , ở đàng sau thì người dân còn chỗ nào để cùng tranh chấp , bởi vậy “ vì không tranh nên thiên hạ không sao cùng tranh vời họ được “.
Trị nước bằng đạo Hữu Vi lại không phải thế :” thường hay can thiệp đến việc dân 1 cách qua rõ ràng , nên người dân cảm thấy là bị trị . Do đó mới có sanh ra tâm trạng chống đối , và nhân thế bậc trị nước phải lo đề phòng để củng cố uy quyền bằng pháp lệ bủa giăng ...Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau , thì trước sau sẽ có kẻ thắng người bại . Ngày mà người dân cảm thấy sức nặng của người trên đè xuống , cảm thấy cái bàn tay đát dẫn chỉ đạo quá gắt gao còng giữ , họ sẽ đâm chán , mong vứt quăng gánh nặng , vượt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng .
Dùng cái đạo Hữu Vi mà trị nước là tạo cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta ...là nguy vậy .
&&&&&
ghi nhận :
làm sao cho công nhân hài lòng với công việc và lương bổng
dân ngu không lo sợ đói , nhà cửa đầy đủ
học sinh cố học tập
thì nhà nước khỏi phải lo theo dõi kìm kẹp
không lo trừng trị trộm cướp , không lo nạn hóa chất thực phẩm
ô nhiễm môi trường
thì thật là hạnh phúc
&&&
nhưng chỉ là mơ thôi...
Thứ Ba, 26 tháng 2, 2008
nhu nhược
Lão Tử Tinh Hoa- Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
&&&
Nhu Nhược
Thuyết Nhu Nhược của Lão Tử là thuyết bị người đời hiểu lầm nhất , như thuyết Bất Tranh của ông vậy .
Thật sự Nhu Nhược là gì ?
Ở chương 76 , ông nói rõ nhất :” Nhân chi sinh dã nhu nhược , kì tử giả kiên cường .Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thủy , kì tử dã khô kháo . Cố kiên cường giả , tử chi đồ ; nhu nhược giả , sinh cho đồ . Thị dĩ binh cường tắc bất thắng ; mộc cường tắc chiết . Cố kiên cướng xử hạ , nhu nhược xử thượng “
( Người khi mới sinh ,thì mềm yếu , mà khi chết thì cứng và mạnh . Vạn vật cây cỏ , mới sinh thì mềm dịu , mà khi chết thì khô héo . Nên cứng và mạnh , là bạn của chết . Mềm và yếu là bạn của sống . Vậy , binh mạnh thì không thắng , cây mạnh thì ắt gẫy . Cứng và mạnh , ở bậc dưới ; mềm và yếu , ở bực trên.)
Trong đoạn văn trên đây , 2 chữ Nhu Nhược quả có 1 triết lí sâu xa , chứ không phải có cái nghĩa thiển cận như thông thường người ta đã hiểu . Lấy thí dụ 1 cái cây , cành lá mềm dịu là chứng sự đang sức sinh hóa ; còn sự khô cứng là triệu chứng của sự cằn cỗi , chết chóc , không còn biến động gì được nữa .
Như thế Nhu Nhược có nghĩa là uyển chuyển , không cố chấp trong 1 hình thức cố định nào , dù thuộc về tâm lí , tình cảm hay tư tưởng .Tâm hồn con người Giải Thoát phải biết luôn luôn thay đổi , biến hóa , vô cùng uyển chuyển để theo kịp với nhịp sống của cuộc Đại Hóa trong trời đất . nếu bị hạn định trong 1 hình thức cứng rắn nào , thì đó là triệu chứng của sự khô cứng và chết chóc .
Bởi vậy , người theo Đạo Giải thoát rất sợ lối tư tưởng theo thành kiến , theo thói quen , theo tập niệm , thường nô lệ theo 1 bảng giá trị bất cứ thuộc về 1 hệ thống tư tưởng , đạo đức , luân lí hay tôn giáo nào .
Mỗi 1 thói quen là 1 thứ ngưng đọng , không còn biến đổi ...nghĩa là đã trở thành máy móc ... Và như vậy , ta có thể quả quyết rằng :” Không có 1 thói quen nào là hay cả đối với tư tưởng . Suy nghĩ theo thói quen , yêu thương vì thói quen , hành động theo tập quán , đó là những trở ngại lớn nhất trong con đường Giải thoát .Cho nên kẻ muốn đi đến Giải thoát , bước đầu tiên là tự mình phá hủy tất cả mọi thành kiến bất cứ thuộc về giới nào “ Kiên cường giả tử chi đồ , như nhược giả sinh chi đồ”.
Người Giải thoát như con rồng . biến hóa , ẩn hiện , không biết sao mà lượng trước được phản ứng của họ . Bậc thường nhân phản ứng rất hạn định chỉ có 1 chiều thôi , như 1 bộ máy ... Những kẻ mà đời sống tinh thần bị gò bó , lệ thuộc trong 1 hệ thống luân lí hay tư tưởng nào sẽ là những kẻ có 1 phản ứng thô sơ và nhất định mà bất cứ ai có óc quan sát đều có thể biết trước được .
Một ông luật sư đứng ra biện hộ cho ai , bao giờ cũng tìm đủ cách để chứng minh rằng thân chủ mình là vô tội . Một nhà Nho hủ lậu bao giờ cũng có những phản ứng 1 chiều và hẹp hòi câu chấp , luôn luôn sẽ có những phản ứng 1 chiều với những ai phạm vào những điều cấm kị của giáo điều Nho Giáo .
Cũng như nhà duy vật sẽ không bao giờ chịu hiểu những gì không ăn khớp với những lí thuyết của họ , như lí thuyết Giai cấp đấu tranh chẳng hạn . Sự phản ứng đối với cuộc đời sẽ không bao giờ giống với những phản ứng 1 cách máy móc của các chất hóa học đã được người ta khám phá và qui định trong những công thức không bao giờ thay đổi . Bởi vậy , người theo đạo Giải thoát của Lão Trang chắc chắn sẽ không bao giờ là tín đồ trung thành của 1 tôn giáo , 1 triết thuyết , hay là chiến sĩ cuồng nhiệt của 1 chủ nghĩa chánh trị , xã hội hay luân lí nào cả .
Đó là cái huyền nghĩa của 2 chữ Nhu Nhược .
&&&
Nhu nhược lại cũng có cái nghĩa là thuận theo , chiều theo , không cưỡng lại ... tức là cái thuật “ Bất tranh nhi thiện thắng “ dùng “ nhu nhược thắng cương cường “ .
Không chống cự , tức là không tạo cho bên địch có cơ hội để tranh đấu :”phù duy bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ ( chương 22 ) . Như thế Nhu Nhược đây có nghĩa là 1 phương pháp tranh đấu :đó là phép lấy hư mà trị thực , 1 phương thuật già dặn nhất trong phép tranh đấu của Nhu đạo ngày nay .
Cho nên mới có chỗ ông bảo :”Thượng thiện nhược thủy , thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh “ ( Bậc thượng thiện giống như nước , nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh ) . Tánh của nước , thì yếu mềm ; gặp chỗ trống , thiếu thì chảy vào ; gặp chỗ đầy dư thì chảy ra . Lánh cao mà tìm thấp , ngày đêm chảy mãi mà không ngừng . Đó là nó thực hiện cái luật quân bình của Trời Đất Nước , luôn luôn chiều theo mà không kháng cự . Bị cản thì dừng , mở đường thì chảy , ống thẳng bầu tròn , nhưng không mất bản chất .
Tóm lại , chương 40 có viết :” Nhược giả , Đạo chi dụng “. Yếu mềm là cái dụng của Đạo .. Nhược đây là biết chiều theo , không chống lại ... không dùng ý chí mà cưỡng lại với Đạo , như người thợ lặn giỏi không cưỡng lại với nước nên không hay là có nước . Câu “ yếu mềm là cái dụng của Đạo “ , ta phải hiểu yếu mềm đây , là phương pháp để trở về với Đạo .
Bởi người ta thường sống thích đua đòi theo kẻ khác , chỉ tìm cách để bắt chước kẻ khác , sống theo cái sống của kẻ khác , sống theo những ước lệ giả tạo bên ngoài ... mà không sống theo cái Chân Tánh của mình cho nên mới có dùng đến Ý Chí , tức là cố cưỡng ép mình để trở thành những gì không phải là mình . Nếu biết sống theo mình , theo cái Chân Diện Mục của mình thì sao lại phải còn dùng đến Ý Chí . Nên mới gọi là Vô Vi , vì đã huyền đồng cùng Bản Tánh .
Đó là cái nghĩa thứ 2 của Nhu Nhược , đồng với Vô Vi , mà phương tiện là Bất Tranh .
&&&&&&
&&&
Nhu Nhược
Thuyết Nhu Nhược của Lão Tử là thuyết bị người đời hiểu lầm nhất , như thuyết Bất Tranh của ông vậy .
Thật sự Nhu Nhược là gì ?
Ở chương 76 , ông nói rõ nhất :” Nhân chi sinh dã nhu nhược , kì tử giả kiên cường .Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thủy , kì tử dã khô kháo . Cố kiên cường giả , tử chi đồ ; nhu nhược giả , sinh cho đồ . Thị dĩ binh cường tắc bất thắng ; mộc cường tắc chiết . Cố kiên cướng xử hạ , nhu nhược xử thượng “
( Người khi mới sinh ,thì mềm yếu , mà khi chết thì cứng và mạnh . Vạn vật cây cỏ , mới sinh thì mềm dịu , mà khi chết thì khô héo . Nên cứng và mạnh , là bạn của chết . Mềm và yếu là bạn của sống . Vậy , binh mạnh thì không thắng , cây mạnh thì ắt gẫy . Cứng và mạnh , ở bậc dưới ; mềm và yếu , ở bực trên.)
Trong đoạn văn trên đây , 2 chữ Nhu Nhược quả có 1 triết lí sâu xa , chứ không phải có cái nghĩa thiển cận như thông thường người ta đã hiểu . Lấy thí dụ 1 cái cây , cành lá mềm dịu là chứng sự đang sức sinh hóa ; còn sự khô cứng là triệu chứng của sự cằn cỗi , chết chóc , không còn biến động gì được nữa .
Như thế Nhu Nhược có nghĩa là uyển chuyển , không cố chấp trong 1 hình thức cố định nào , dù thuộc về tâm lí , tình cảm hay tư tưởng .Tâm hồn con người Giải Thoát phải biết luôn luôn thay đổi , biến hóa , vô cùng uyển chuyển để theo kịp với nhịp sống của cuộc Đại Hóa trong trời đất . nếu bị hạn định trong 1 hình thức cứng rắn nào , thì đó là triệu chứng của sự khô cứng và chết chóc .
Bởi vậy , người theo Đạo Giải thoát rất sợ lối tư tưởng theo thành kiến , theo thói quen , theo tập niệm , thường nô lệ theo 1 bảng giá trị bất cứ thuộc về 1 hệ thống tư tưởng , đạo đức , luân lí hay tôn giáo nào .
Mỗi 1 thói quen là 1 thứ ngưng đọng , không còn biến đổi ...nghĩa là đã trở thành máy móc ... Và như vậy , ta có thể quả quyết rằng :” Không có 1 thói quen nào là hay cả đối với tư tưởng . Suy nghĩ theo thói quen , yêu thương vì thói quen , hành động theo tập quán , đó là những trở ngại lớn nhất trong con đường Giải thoát .Cho nên kẻ muốn đi đến Giải thoát , bước đầu tiên là tự mình phá hủy tất cả mọi thành kiến bất cứ thuộc về giới nào “ Kiên cường giả tử chi đồ , như nhược giả sinh chi đồ”.
Người Giải thoát như con rồng . biến hóa , ẩn hiện , không biết sao mà lượng trước được phản ứng của họ . Bậc thường nhân phản ứng rất hạn định chỉ có 1 chiều thôi , như 1 bộ máy ... Những kẻ mà đời sống tinh thần bị gò bó , lệ thuộc trong 1 hệ thống luân lí hay tư tưởng nào sẽ là những kẻ có 1 phản ứng thô sơ và nhất định mà bất cứ ai có óc quan sát đều có thể biết trước được .
Một ông luật sư đứng ra biện hộ cho ai , bao giờ cũng tìm đủ cách để chứng minh rằng thân chủ mình là vô tội . Một nhà Nho hủ lậu bao giờ cũng có những phản ứng 1 chiều và hẹp hòi câu chấp , luôn luôn sẽ có những phản ứng 1 chiều với những ai phạm vào những điều cấm kị của giáo điều Nho Giáo .
Cũng như nhà duy vật sẽ không bao giờ chịu hiểu những gì không ăn khớp với những lí thuyết của họ , như lí thuyết Giai cấp đấu tranh chẳng hạn . Sự phản ứng đối với cuộc đời sẽ không bao giờ giống với những phản ứng 1 cách máy móc của các chất hóa học đã được người ta khám phá và qui định trong những công thức không bao giờ thay đổi . Bởi vậy , người theo đạo Giải thoát của Lão Trang chắc chắn sẽ không bao giờ là tín đồ trung thành của 1 tôn giáo , 1 triết thuyết , hay là chiến sĩ cuồng nhiệt của 1 chủ nghĩa chánh trị , xã hội hay luân lí nào cả .
Đó là cái huyền nghĩa của 2 chữ Nhu Nhược .
&&&
Nhu nhược lại cũng có cái nghĩa là thuận theo , chiều theo , không cưỡng lại ... tức là cái thuật “ Bất tranh nhi thiện thắng “ dùng “ nhu nhược thắng cương cường “ .
Không chống cự , tức là không tạo cho bên địch có cơ hội để tranh đấu :”phù duy bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ ( chương 22 ) . Như thế Nhu Nhược đây có nghĩa là 1 phương pháp tranh đấu :đó là phép lấy hư mà trị thực , 1 phương thuật già dặn nhất trong phép tranh đấu của Nhu đạo ngày nay .
Cho nên mới có chỗ ông bảo :”Thượng thiện nhược thủy , thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh “ ( Bậc thượng thiện giống như nước , nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh ) . Tánh của nước , thì yếu mềm ; gặp chỗ trống , thiếu thì chảy vào ; gặp chỗ đầy dư thì chảy ra . Lánh cao mà tìm thấp , ngày đêm chảy mãi mà không ngừng . Đó là nó thực hiện cái luật quân bình của Trời Đất Nước , luôn luôn chiều theo mà không kháng cự . Bị cản thì dừng , mở đường thì chảy , ống thẳng bầu tròn , nhưng không mất bản chất .
Tóm lại , chương 40 có viết :” Nhược giả , Đạo chi dụng “. Yếu mềm là cái dụng của Đạo .. Nhược đây là biết chiều theo , không chống lại ... không dùng ý chí mà cưỡng lại với Đạo , như người thợ lặn giỏi không cưỡng lại với nước nên không hay là có nước . Câu “ yếu mềm là cái dụng của Đạo “ , ta phải hiểu yếu mềm đây , là phương pháp để trở về với Đạo .
Bởi người ta thường sống thích đua đòi theo kẻ khác , chỉ tìm cách để bắt chước kẻ khác , sống theo cái sống của kẻ khác , sống theo những ước lệ giả tạo bên ngoài ... mà không sống theo cái Chân Tánh của mình cho nên mới có dùng đến Ý Chí , tức là cố cưỡng ép mình để trở thành những gì không phải là mình . Nếu biết sống theo mình , theo cái Chân Diện Mục của mình thì sao lại phải còn dùng đến Ý Chí . Nên mới gọi là Vô Vi , vì đã huyền đồng cùng Bản Tánh .
Đó là cái nghĩa thứ 2 của Nhu Nhược , đồng với Vô Vi , mà phương tiện là Bất Tranh .
&&&&&&
bất ngôn chi giáo 1
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Bất ngôn chi giáo 1 .
&&&
Chương 2 ,sách Lão Tử có câu :” Xử vô vi chi sự , hành bất ngôn chi giáo”.( dùng vô vi mà xử sự , dùng phương pháp không lời mà dạy dỗ ).
Chương 43 lại nói thêm:” Bất ngôn chi giáo , vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi” . ( Dạy bảo mà không cần đến lới nói , sự lợi ích của vô vi , trong thiên hạ ít ai theo kịp ).
Dạy bảo mà không dùng đến lời nói ... Là nghĩa gì ? Như trước đây ,ở chương bàn về sự học . Lão Tử khuyên ta đừng học cái trục vật , vụn vặt , phiền phức bên ngoài .
Chương 20 , ông nói :” tuyệt học vô ưu “ , đến chương 64 ông lại bảo :” học bất học “. Hãy học cái không thể học được là Đạo . Mà Đạo , thì không thể dùng lời nói mà miêu tả được :” Đạo khả Đạo , phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh “ .( Đạo mà nói được , không phải là cái thường của Đạo . Danh mà ta có thể gọi được , không còn phải là Danh thường nữa ).
Vì vậy , ông mới không dùng đến lời nói để mà dạy . Ông lại cũng có nói :” tri giả bất ngôn , ngôn giả bất tri “ , cũng đều là chỉ về cái học về Đạo cả . Sở dĩ phải dùng đến lời là 1 sự miễn cưỡng rồi vậy . Đạo học là 1 cái học Tâm truyền Tâm , không có thể nào dùng lời mà hình dung được , chỉ có thể cảm thông mà thôi . Đó là nghĩa thứ nhất của “bất ngôn chi giáo”
&&&
Cái học của Lão Tử thuộc về Tâm học , tuy không thể lấy lời nói mà miêu tả được , nhưng cũng có khi dùng lời nói để khêu gợi được ... Dùng lời để mà khêu gợi mà thôi , chứ thực ra , trong đời không ai dạy ai được , nếu tự mình không tìm kiếm ra , cho nên cũng gọi là “ bất ngôn chi giáo “ , đó là nghĩa thứ 2 .
&&&
Chương 57 , Lão Tử bảo :” Ngã vô vi nhi dân tự hóa “ ( Ta không làm mà dân tự theo ) . Bậc trị nước , không cần bắt buộc dạy bảo , cần lấy gương vô tư , vô dục của mình mà dạy dân , dùng “bất ngôn chi giáo “ mà sửa dân ... thì dân không có hay là mình có làm gì , nhưng tự chúng sửa đổi lấy mình mà không cần đến sự bắt buộc hay cấm đoán , ban hành pháp lệnh . Ông lại nói :” Ngã hiếu tịnh nhi dân tự chính , ngã vô sự nhi dân tự phú , ngã vô dục nhi dân tự phác “
( Ta ưa tịnh mà dân tự chính , ta vô sự mà dân tự giàu , ta không dục vọng mà dân trở thành chất phác ) . Đó đều là phép “ bất ngôn chi giáo “ của ông cả . Về sau Trang Tử trong Thiên ” Đức sung phù “ giải rất rõ cái phép “ bất ngôn chi giáo” ấy :” Đức sung ư nội , nhi nhơn hóa ư ngoại , tự nhiên cảm hóa bất đãi giáo ngôn giả dã “
Nghĩa là :” Đức mà đầy đủ nơi trong , thì người ở ngoài được hóa , tự nhiên được cảm hóa , không cần phải dùng đến lời mà dạy “ . Đây là nghĩa thứ 3 của nó .
Hai chữ vô vi và tự hóa có sự liên lạc nhau rất mật thiết .
Vật nào cũng có cái tính tự nhiên của nó , không vật nào giống vật nào cả .Vậy là biết chấp nhận cái chỗ “ bất bình đẳng tự nhiên “ ấy của vạn sự vạn vật . Biết chấp nhận sự “ bất bình đẳng tự nhiên “ ấy của vạn vật , thì ta phải biết kính trọng cái tánh tự nhiên của mỗi vật mà không nên xen vào làm trở ngại , hay hủy hoại sự phát triển tự nhiên của nó .
Tóm lại, mỗi vật đều có chỗ nhận là phải , là tốt riêng theo vật ấy .Vật ta không nên cưỡng ép cho đồng được . Mà thực sự , ta cũng không làm sao cưỡng ép cho đồng được . Chỗ không thể đồng của vạn vật , ta phải biết chịu nó , nghĩa là chấp nhận nó , đó là ta dùng chỗ “ không thể đồng “ , mà làm cho vạn vật đồng nhau . Nghĩa là mỗi vật đồng được sống tự do theo cái sống của mình . Tự do và bình đẳng vì thế mà không thể lìa nhau . Hễ mất tự do thì không có bình đẳng , mà mất bình đảng là vì chẳng có tự do .
Như vậy , bất cử chế độ chánh trị nào mà định ra 1 cái “ tận thiện mẫu “ để làm tiêu chuẩn chung cho mọi tư tưởng và hành vi con người ( như ở các xã hội độc tài dưới mọi hình thức ) khiến cho cả thiên hạ đều phải theo đó mà hành động , là sái với tự nhiên , là ép chỗ “không thể đồng “ phải “ đồng “ với nhau tất cả .
Ở thiên Biền Mẫu , ông nói :” Cẳng vịt thì ngắn , cố mà nối dài nó khổ . Dò hạc thì dài , cố làm cho nó ngắn nó đau , cho nên tánh mà dài không phải cái nên chặt bớt . Tánh mà ngắn , không phải cái nên kéo dài , thì sao có đau khổ ?
Nhân thế , nhân quí trọng đặc tính của con người mà Lão Tử mới đề xướng phương pháp xử thế “ xử vô vi chi sự , hành bất ngôn chi giáo “ lấy vô vi mà xử sự , lấy phương pháp bất ngôn mà hành giáo .Vô vi là cố gắng đừng xen vào việc riêng tư của thiên hạ , càng nhiều bao nhiêu ,càng hay bấy nhiêu .
Lão Tử nói :” Ngã vô vi nhi dân tự hóa “ ta hành cái đạo vô vi mà mỗi cá nhân đều được tự hóa , nghĩa là hóa theo mình , chứ không hóa theo ai cả. Lão cũng như Trang đều tin rằng không ai hòa được ai cả , trừ người đó ra .
Mà thật vậy , sỡ dĩ mình chấp nhận lời nói việc làm của kẻ khác là vì “ đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu “.
Bàn đến tự hóa tức là nói cái quyền sống tự do của con ngưới rồi . Kẻ ngu thì nhờ có người hóa , người trí thì tự mình hóa lấy mình .
Cái chân danh dự của con người , phải chăng là trừ mình ra không ai giải thoát cho mình được cả . Sự giúp đời của Chân Nhân như ánh mặt trời giúp cho trăm hoa đua nở , nhưng hoa nào nở hoa nấy , không bắt buộc hoa náy phải trổ theo hoa kia ... hay theo 1 loài hoa kiểu mẫu . Đừng mong kéo cẳng vịt cho dài , thu dò hạc ngắn lại , nghĩa là đừng làm cái việc làm của chàng Procuste trong thần thoại Hi lạp .
(Theo thần thoại Hi Lạp , Procuste là 1 tướng cướp rất độc ác ,anh ta có sắm 1 cái giường sắt . Bắt được nạn nhân nào cũng đặt lên cái giường khuôn mẫu ấy . Nếu vừa thì thôi , bằng không thì phải chặt chân , hay kéo dài chân cho vừa vặn với cái giường . Cái giường của Procuste là danh từ ám chỉ các chế độc độc tài bắt thiên hạ đổ vào 1 khuôn mẫu đã định sẵn .Trang Tử phản đối “ Đừng mong kéo cẳng vịt cho dài , thu dò hạc cho ngắn )
Nhưng mà đó lại là công việc làm của các nhà xã hội chánh trị hữu vi từ xưa đến nay vậy .
Mục tiêu chính của các nhà làm luật pháp , các luân lí gia , các chế độ chánh trị theo phái hữu vi ...phải chăng đều có tham vọng san bằng mọi cá tánh đặc biệt của con người . Bình đẳng hóa 1 cách máy móc tất cả mọi bất bình đẳng 1 cách tự nhiên trong thiên hạ ... Biến mỗi cá nhân thành 1 con người sống theo xã hội , tức là 1 “ con người máy “ vô hồn ,vô trách nhiệm .
Tất cả mọi chế dộ chính trị , xã hội theo phái hữu vi đều định ra 1 cái toàn thiện nào đó để làm tiêu chuẩn chung cho mọi tư tưởng hành vi , khiến cho con người đều phải theo đó mà hành động không dám sai chạy ...Đó là ép những chỗ không đồng ( bất bình đẳng tự nhiên ) phải đồng ( bình đẳng ) nhau .
Các bậc trị nước theo phái Hữu Vi lập ra qui củ chuẩn thằng cùng các qui luật thép để định chế chánh trị , xã hội , khiến cho người người trong thiên hạ đều phải phục tùng nô lệ . Chỗ dụng tâm tuy chưa phải là không có thiện ý ... nhưng kết quả thì lại như Lỗ hầu nuôi chim ...
Trang Tử trong thiên Chí Lạc đã nêu rõ rắng :” Xưa có con chim biển đậu lạc ở cửa thành nước Lỗ , Lỗ hầu ngự ra nghinh tiếp , rước về chuốc rượu ở đền Thái Miếu , cho tấu nhạc Cửu Thiều cho nó vui , giết trâu bò mời nó ăn ... chim ấy ngó dớn dác bộ sầu bi , không dám ăn dám uống . Cách 3 hôm thì chết . Đó là dùng cách nuôi người mà nuôi chim . Nếu muốn dùng cách nuôi chim mà nuôi chim , thì phải cho nó đậu ở rừng sâu , dạo ngoài gò đất , trôi nổi sông hồ , kiếm ăn lươn cá , đỗ theo hàng liệt , ung dung tự đắc , thích đâu ở đó .
Cứ như người nói là nó đã không ưa rồi , lựa là đem tiếng nhạc mà làm cho nó kinh tâm . Nếu đem nhạc Hàm Trì , Cửu Thiều mà đánh lên ở Động đình thì cá nghe phải lặn . Nhưng người ta thì thì lại kéo nhau đến đó mà nghe . Cá ở dưới nước thì sống , người ở dưới nước thì chết .
Đó và đây đã khác nhau , thì sự ưa ghét cũng khác nhau . Bởi vậy , bậc Thánh Nhân xưa không giống nhau về sở năng , nên không đồng nhau về sự nghiệp .
Như vậy ta thấy Lỗ Hầu không phải là không có thiện ý giúp ích cho chim biển , nhưng kết quả thì lại khác hẳn với ý muốn của mình . Hại mà không có lợi gì cho vật mình yêu cả . Đó là hậu quả không may của những kẻ chỉ muốn dùng luật pháp , giáo dục , luân lí để mà điển chế tư tưởng hành vi của thiên hạ và đương nhiên là phủ nhận 1 cách trắng trợn quyền tự do tư tưởng của con người .
&&&&
Bất ngôn chi giáo 1 .
&&&
Chương 2 ,sách Lão Tử có câu :” Xử vô vi chi sự , hành bất ngôn chi giáo”.( dùng vô vi mà xử sự , dùng phương pháp không lời mà dạy dỗ ).
Chương 43 lại nói thêm:” Bất ngôn chi giáo , vô vi chi ích, thiên hạ hi cập chi” . ( Dạy bảo mà không cần đến lới nói , sự lợi ích của vô vi , trong thiên hạ ít ai theo kịp ).
Dạy bảo mà không dùng đến lời nói ... Là nghĩa gì ? Như trước đây ,ở chương bàn về sự học . Lão Tử khuyên ta đừng học cái trục vật , vụn vặt , phiền phức bên ngoài .
Chương 20 , ông nói :” tuyệt học vô ưu “ , đến chương 64 ông lại bảo :” học bất học “. Hãy học cái không thể học được là Đạo . Mà Đạo , thì không thể dùng lời nói mà miêu tả được :” Đạo khả Đạo , phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh “ .( Đạo mà nói được , không phải là cái thường của Đạo . Danh mà ta có thể gọi được , không còn phải là Danh thường nữa ).
Vì vậy , ông mới không dùng đến lời nói để mà dạy . Ông lại cũng có nói :” tri giả bất ngôn , ngôn giả bất tri “ , cũng đều là chỉ về cái học về Đạo cả . Sở dĩ phải dùng đến lời là 1 sự miễn cưỡng rồi vậy . Đạo học là 1 cái học Tâm truyền Tâm , không có thể nào dùng lời mà hình dung được , chỉ có thể cảm thông mà thôi . Đó là nghĩa thứ nhất của “bất ngôn chi giáo”
&&&
Cái học của Lão Tử thuộc về Tâm học , tuy không thể lấy lời nói mà miêu tả được , nhưng cũng có khi dùng lời nói để khêu gợi được ... Dùng lời để mà khêu gợi mà thôi , chứ thực ra , trong đời không ai dạy ai được , nếu tự mình không tìm kiếm ra , cho nên cũng gọi là “ bất ngôn chi giáo “ , đó là nghĩa thứ 2 .
&&&
Chương 57 , Lão Tử bảo :” Ngã vô vi nhi dân tự hóa “ ( Ta không làm mà dân tự theo ) . Bậc trị nước , không cần bắt buộc dạy bảo , cần lấy gương vô tư , vô dục của mình mà dạy dân , dùng “bất ngôn chi giáo “ mà sửa dân ... thì dân không có hay là mình có làm gì , nhưng tự chúng sửa đổi lấy mình mà không cần đến sự bắt buộc hay cấm đoán , ban hành pháp lệnh . Ông lại nói :” Ngã hiếu tịnh nhi dân tự chính , ngã vô sự nhi dân tự phú , ngã vô dục nhi dân tự phác “
( Ta ưa tịnh mà dân tự chính , ta vô sự mà dân tự giàu , ta không dục vọng mà dân trở thành chất phác ) . Đó đều là phép “ bất ngôn chi giáo “ của ông cả . Về sau Trang Tử trong Thiên ” Đức sung phù “ giải rất rõ cái phép “ bất ngôn chi giáo” ấy :” Đức sung ư nội , nhi nhơn hóa ư ngoại , tự nhiên cảm hóa bất đãi giáo ngôn giả dã “
Nghĩa là :” Đức mà đầy đủ nơi trong , thì người ở ngoài được hóa , tự nhiên được cảm hóa , không cần phải dùng đến lời mà dạy “ . Đây là nghĩa thứ 3 của nó .
Hai chữ vô vi và tự hóa có sự liên lạc nhau rất mật thiết .
Vật nào cũng có cái tính tự nhiên của nó , không vật nào giống vật nào cả .Vậy là biết chấp nhận cái chỗ “ bất bình đẳng tự nhiên “ ấy của vạn sự vạn vật . Biết chấp nhận sự “ bất bình đẳng tự nhiên “ ấy của vạn vật , thì ta phải biết kính trọng cái tánh tự nhiên của mỗi vật mà không nên xen vào làm trở ngại , hay hủy hoại sự phát triển tự nhiên của nó .
Tóm lại, mỗi vật đều có chỗ nhận là phải , là tốt riêng theo vật ấy .Vật ta không nên cưỡng ép cho đồng được . Mà thực sự , ta cũng không làm sao cưỡng ép cho đồng được . Chỗ không thể đồng của vạn vật , ta phải biết chịu nó , nghĩa là chấp nhận nó , đó là ta dùng chỗ “ không thể đồng “ , mà làm cho vạn vật đồng nhau . Nghĩa là mỗi vật đồng được sống tự do theo cái sống của mình . Tự do và bình đẳng vì thế mà không thể lìa nhau . Hễ mất tự do thì không có bình đẳng , mà mất bình đảng là vì chẳng có tự do .
Như vậy , bất cử chế độ chánh trị nào mà định ra 1 cái “ tận thiện mẫu “ để làm tiêu chuẩn chung cho mọi tư tưởng và hành vi con người ( như ở các xã hội độc tài dưới mọi hình thức ) khiến cho cả thiên hạ đều phải theo đó mà hành động , là sái với tự nhiên , là ép chỗ “không thể đồng “ phải “ đồng “ với nhau tất cả .
Ở thiên Biền Mẫu , ông nói :” Cẳng vịt thì ngắn , cố mà nối dài nó khổ . Dò hạc thì dài , cố làm cho nó ngắn nó đau , cho nên tánh mà dài không phải cái nên chặt bớt . Tánh mà ngắn , không phải cái nên kéo dài , thì sao có đau khổ ?
Nhân thế , nhân quí trọng đặc tính của con người mà Lão Tử mới đề xướng phương pháp xử thế “ xử vô vi chi sự , hành bất ngôn chi giáo “ lấy vô vi mà xử sự , lấy phương pháp bất ngôn mà hành giáo .Vô vi là cố gắng đừng xen vào việc riêng tư của thiên hạ , càng nhiều bao nhiêu ,càng hay bấy nhiêu .
Lão Tử nói :” Ngã vô vi nhi dân tự hóa “ ta hành cái đạo vô vi mà mỗi cá nhân đều được tự hóa , nghĩa là hóa theo mình , chứ không hóa theo ai cả. Lão cũng như Trang đều tin rằng không ai hòa được ai cả , trừ người đó ra .
Mà thật vậy , sỡ dĩ mình chấp nhận lời nói việc làm của kẻ khác là vì “ đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu “.
Bàn đến tự hóa tức là nói cái quyền sống tự do của con ngưới rồi . Kẻ ngu thì nhờ có người hóa , người trí thì tự mình hóa lấy mình .
Cái chân danh dự của con người , phải chăng là trừ mình ra không ai giải thoát cho mình được cả . Sự giúp đời của Chân Nhân như ánh mặt trời giúp cho trăm hoa đua nở , nhưng hoa nào nở hoa nấy , không bắt buộc hoa náy phải trổ theo hoa kia ... hay theo 1 loài hoa kiểu mẫu . Đừng mong kéo cẳng vịt cho dài , thu dò hạc ngắn lại , nghĩa là đừng làm cái việc làm của chàng Procuste trong thần thoại Hi lạp .
(Theo thần thoại Hi Lạp , Procuste là 1 tướng cướp rất độc ác ,anh ta có sắm 1 cái giường sắt . Bắt được nạn nhân nào cũng đặt lên cái giường khuôn mẫu ấy . Nếu vừa thì thôi , bằng không thì phải chặt chân , hay kéo dài chân cho vừa vặn với cái giường . Cái giường của Procuste là danh từ ám chỉ các chế độc độc tài bắt thiên hạ đổ vào 1 khuôn mẫu đã định sẵn .Trang Tử phản đối “ Đừng mong kéo cẳng vịt cho dài , thu dò hạc cho ngắn )
Nhưng mà đó lại là công việc làm của các nhà xã hội chánh trị hữu vi từ xưa đến nay vậy .
Mục tiêu chính của các nhà làm luật pháp , các luân lí gia , các chế độ chánh trị theo phái hữu vi ...phải chăng đều có tham vọng san bằng mọi cá tánh đặc biệt của con người . Bình đẳng hóa 1 cách máy móc tất cả mọi bất bình đẳng 1 cách tự nhiên trong thiên hạ ... Biến mỗi cá nhân thành 1 con người sống theo xã hội , tức là 1 “ con người máy “ vô hồn ,vô trách nhiệm .
Tất cả mọi chế dộ chính trị , xã hội theo phái hữu vi đều định ra 1 cái toàn thiện nào đó để làm tiêu chuẩn chung cho mọi tư tưởng hành vi , khiến cho con người đều phải theo đó mà hành động không dám sai chạy ...Đó là ép những chỗ không đồng ( bất bình đẳng tự nhiên ) phải đồng ( bình đẳng ) nhau .
Các bậc trị nước theo phái Hữu Vi lập ra qui củ chuẩn thằng cùng các qui luật thép để định chế chánh trị , xã hội , khiến cho người người trong thiên hạ đều phải phục tùng nô lệ . Chỗ dụng tâm tuy chưa phải là không có thiện ý ... nhưng kết quả thì lại như Lỗ hầu nuôi chim ...
Trang Tử trong thiên Chí Lạc đã nêu rõ rắng :” Xưa có con chim biển đậu lạc ở cửa thành nước Lỗ , Lỗ hầu ngự ra nghinh tiếp , rước về chuốc rượu ở đền Thái Miếu , cho tấu nhạc Cửu Thiều cho nó vui , giết trâu bò mời nó ăn ... chim ấy ngó dớn dác bộ sầu bi , không dám ăn dám uống . Cách 3 hôm thì chết . Đó là dùng cách nuôi người mà nuôi chim . Nếu muốn dùng cách nuôi chim mà nuôi chim , thì phải cho nó đậu ở rừng sâu , dạo ngoài gò đất , trôi nổi sông hồ , kiếm ăn lươn cá , đỗ theo hàng liệt , ung dung tự đắc , thích đâu ở đó .
Cứ như người nói là nó đã không ưa rồi , lựa là đem tiếng nhạc mà làm cho nó kinh tâm . Nếu đem nhạc Hàm Trì , Cửu Thiều mà đánh lên ở Động đình thì cá nghe phải lặn . Nhưng người ta thì thì lại kéo nhau đến đó mà nghe . Cá ở dưới nước thì sống , người ở dưới nước thì chết .
Đó và đây đã khác nhau , thì sự ưa ghét cũng khác nhau . Bởi vậy , bậc Thánh Nhân xưa không giống nhau về sở năng , nên không đồng nhau về sự nghiệp .
Như vậy ta thấy Lỗ Hầu không phải là không có thiện ý giúp ích cho chim biển , nhưng kết quả thì lại khác hẳn với ý muốn của mình . Hại mà không có lợi gì cho vật mình yêu cả . Đó là hậu quả không may của những kẻ chỉ muốn dùng luật pháp , giáo dục , luân lí để mà điển chế tư tưởng hành vi của thiên hạ và đương nhiên là phủ nhận 1 cách trắng trợn quyền tự do tư tưởng của con người .
&&&&
Thứ Hai, 25 tháng 2, 2008
bất ngôn chi giáo 2
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Bất ngôn chi giáo 2.
&&&
Như thế ta thấy , với cái học Lão Trang , giá trị và vai trò của cá nhân trong xã hội loài người đã được minh định rõ ràng . Cá nhân không phải là 1 công cụ nô lệ cho xã hội , mà xã hội sở dĩ được tạo ra là để thích ứng và phục vụ con người , giúp cho sự phát triển tự do cá tánh của từng cá nhân trong đó . Đành rằng “ thời thế tạo anh hùng “ nhưng “ anh hùng cũng tạo thời thế “.Con người đâu phải hoàn toàn là sản phẩm xã hội .
Chương 5 , ông nói :” Đa ngôn sổ cùng , bất như thủ trung “ ( Nói nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết được , thà là giữ lấy mực trung ) . Là tại sao ? Đạo , là nguyên lí quân bình . Việc đời có gì lạ ngoài Thị Phi , Thiện Ác ... Nếu bảo đây là Phải , thì lại sợ rằng thiên hạ quá thiên về đó mà đi quá trớn , trở thành cái Quấy . Lạ gì thói đời , làm gì cũng thái quá !
Cái bệnh câu chấp ấy là thông bệnh của con người .Thà là giữ lấy mực Trung , ít nói chừng nào hay chừng nấy :” Hi ngôn tự nhiên “ ( chương 23 ).
Thị Phi , Thiện Ác , Vinh Nhục , Lợi Hại chỉ là bề mặt bề trái của mọi sự vật trên đời , thì lợi cho đây chưa ắt cũng còn là lợi cho kia , phải cho đây chưa ắt cũng còn là phải cho kia ...Cho nên kẻ đạt Đạo không ham biện bạch gì với ai cả : sự hiểu biết do trình độ mà có cao có thấp .
Đồng với ta cho ta là Phải , không đồng với ta cho ta là Quấy . Sự Phải Quấy trong đời bất quá chỉ có bấy nhiêu thôi . Cho nên mới có câu :” Thiện giả bất biện , Biện giả bất thiện “( Chương 81) ( Người thiện không tranh biện , người tranh biện không thiện )
Chữ Thiện đây , có nghĩa là người sành về Đạo , chứ không phải ám chỉ người Lành đối với kẻ Dữ , theo cái nghĩa thông thường về luân lí . Chương 2 nói rất rõ ràng lẽ ấy :” Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ , tư ác dĩ . Giai tri thiện chi vi thiện , tư bất thiện dĩ . Cố hữu vô tương sinh , nan dị tương thành , trường đoản tương hình , cao hạ tương khuynh , âm thanh tương hòa , tiền hậu tương tùy . Thị dĩ thánh nhân , xử vô vi chi sự , hành bất ngôn chi giáo”
( Thiên hạ đều biết tốt là tốt , thì đã có xấu rồi . Đều biết lành là lành , thì đã có cái chẳng lành rồi . Bởi vậy , có và không sanh nhau . Khó và dễ cùng thành . Ngắn và dài cùng sanh . Cao và thấp cùng chiều . Giọng và tiếng cùng hòa , trước và sau cùng theo . Vậy nên Thánh nhân dùng Vô Vi mà xử sự , dùng bất ngôn mà dạy dỗ ). Không phải là không nói , mà không nói đến Thị Phi , Thiện Ác , bởi nói Thị thì Phi dấy lên , nói Thiện thì Ác dấy lên ...
Thực ra , nếu có thể dậy được điều gì , thì chắc chắn ông sẽ không bỏ lỡ cơ hội để chỉ dậy . Ông nói :” Nhơn chi sở giáo , ngã diệc giáo chi “ ( chỗ mà người xưa dậy được , ta nay cũng dạy...) . Dạy cái gì ? Dạy những chân lí thông thường mà không cần minh chứng như câu “ dùng bạo động , chết bạo tàn “ .( Cường lương giả , bất đắc kì tử ) .
Huống chi lời dạy khéo , là lời dạy mà người thụ giáo không hay là được thụ giáo , mà người dạy cũng không dè là mình đã dậy . Đó là dạy 1 cách khéo léo , kín đáo chứ không vinh váo ra mặt thầy đời . Những lời dạy như thế mới là có nhiều kết quả nhất , đó là hành dộng Vô Vi , đó là bất ngôn chi giáo .
“ Thiện hành vô triệt tích , thiện ngôn vô hà trích ...” ( đi khéo không để lại dấu chân , nói khéo không để lỗi lầm ...) Một việc làm được gọi là hoàn toàn khi nào làm mà không ai nhận thấy dấu vết của việc làm . Đó là Vô Vi nhi Vô bất Vi ( không làm , nhưng không có gì mà không làm ).
Bậc đạt Đạo , dạy người mà không ai dè là được dạy , người dạy không cho mình có dạy mà cậy công , người được dậy không hay là mình được dậy mà ghi ân , nên không có sự bội ân .
Lại nữa , sự hiểu biết của ta phải tự ta tìm lấy , không thể do kẻ khác truyền dạy . Là tại sao ? Có dạy được chăng là vì nơi người đã có sẵn mầm tư tưởng mà ta muốn truyền dạy . Nên chi Trang Tử mới nói :” Đồng với ta cho ta là Phải “ và chấp nhận , còn “ không đồng với ta cho ta là Quấy “ và không chấp nhận . Như vậy thì không ai có thể dạy ai được ; ta chỉ khêu gợi được những gì có sẵn nơi tâm trí kẻ khác mà thôi . Đó cũng là 1 trong nhiều nghĩa của “ Bất Ngôn chi giáo “
&&&
Tóm lại , với 4 chữ “ bất ngôn chi giáo “ , đủ chứng minh rằng Lão Tử không bao giờ chủ trương chính sách Ngu Dân như đã có nhiều người ngộ nhận mà gán cho ông . “ Bất ngôn chi giáo “ là phương pháp giáo dục chỉ dùng đến sự khêu gợi , không dùng phép hữu vi mà nhồi sọ , mà bắt buộc kẻ khác phải nhận sự hiểu biết của mình .
Chưa đến lúc nói , thì không nói ; đến lúc phải nói thì chỉ nói nửa lời thôi , cốt để khêu gợi , giúp cho người khải phát cái tri thức tiềm tàng của người , nghĩa là người thông đạt là kẻ giúp cho người suy nghĩ , chứ không phải là người suy nghĩ thế cho người .
Lối nhận xét này của Lão Tử là lối nhận xét chung của phần đông bậc Trí giả Đông Phương . Theo người Đông Phương , 1 sự hiểu biết gì mà không phải tự mình tìm ra , không phải là 1 sự hiểu biết thật , mà là 1 sự hiểu biết nhồi sọ , 1 thứ hiểu biết ngoài da .
Đọc 1 bài văn hay 1 quyển sách mà biết thích và cho là hay là vì nó đồng với chỗ ưa thích của mình và cũng nhờ đó mà nó khêu gợi lên được và làm vang dội tâm hồn mình . Đó là chỗ mà người Đông Phương gọi “ đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu “. Cho nên đọc sách ( về Đạo Học ) theo người Đông Phương không phải là để học thêm của người , mà là để tìm hiểu cái sâu thẳm , khải phát cái mà lòng ấp ủ hoặc đã có sẵn nơi mình mà mình không dè .
Vì vậy , cũng thời 1 câu văn mà có kẻ nghe qua không thấy chút gì rung cảm ; trái lại , có kẻ vừa đọc qua là thấy cả cái người của mình rung chuyển lạ thường . Sách vở Kinh Điển của Đông Phương ( mà quyển Đạo Đức Kinh đây là 1 ) vì thế phần nhiều dùng 1 lối văn rất vắn tắt không lí luận , cũng không minh chứng dài dòng .
Đó là cốt để cho kẻ học hỏi phải dụng công suy nghĩ và lắng nghe cái tiếng dội nơi chỗ thâm sâu của lòng mình . Lời lẽ trong sách chỉ để khêu gợi ... Mà muốn khêu gợi thì chỉ nên nói nửa lời thôi . Đọc sách của Đông Phương viết ra phải nhớ lời nói này của 1 học giả Tây Phương khuyên ta :”Điều quan trọng không phải nơi cái điều mà quyển sách muốn nói với ta , mà nơi những gì quyển sách khêu gợi được nơi lòng ta “ .
Xem như trí thức và lí luận của các hiền giả Đông Phương đâu có kém gì người Tây Phương , thế nhưng tại sao sách vở họ viết ra lại dùng 1 lối văn vắn tắt , không mạch lạc , không minh chứng ? Đó là dụng ý của họ cốt tạo 1 cái học về bề sâu , khêu gợi và làm khải phát cái tiềm lực thiêng liêng tàng ẩn trong đáy lòng người đệ tử hay người đọc sách .
Sự tối tăm cố ý của câu văn có công dụng hấp dẫn của nó là kích thích óc tò mò , sự tìm hiểu ẩn ý của người viết và nhân đó giải phóng những tiềm lực thiêng liêng ẩn núp trong đáy lòng của mình .
Phái Thiền học của Phật Giáo Đại Thừa lại còn đi xa hơn trong vấn đề “bất ngôn chi giáo “ do Lão Tử đề xướng . Họ cho rằng :” Giáo ngoại biệt truyền , bất lập văn tự , trực chỉ nhân tâm , kiến tánh thành Phật “.Vì Đạo học là 1 vấn đề không thể dùng danh từ mà truyền được .
Ông Thầy ở Đông Phương không vội vàng truyền giáo cho bất cứ ai . Dù là đối với các đệ tử của mình đến cầu thụ thỉnh giáo . Ông thầy Đông Phương cũng đợi đến khi nào lòng người cầu Đạo chí thành và đủ sức hiểu biết mới chịu nói ra và cũng chỉ nói nửa lời mà thôi ! Đó là do quan niệm về lối dậy dỗ theo thuyết “bất ngôn chi giáo “ mà ra vậy .
&&&&
Ghi nhận :
Những người tự tìm ra đạo , là những bậc Thánh . Còn chúng ta là người thường , không thể Kiến tánh thành Phật .
Mà cũng chưa đủ nội lực để theo . Nếu cố cưỡng cầu , thì sẽ bị tẩu hỏa nhập ma !( Hiểu biết sai , đưa tới thi hành sai ) . Bởi thế có nhiều tầng hiểu biết cao thấp khác nhau . Kẻ tiểu nhân nghe Đạo thì cười to ...!!!Người trung bình thì nửa tin nửa ngờ !!!
Than ôi , tới 99 % người trên thế giới nửa tin nửa ngờ , và cười to khi nghe nói đến Đạo ! Còn 1 % chưa chắc kiến tánh thành Phật ! Chắc chỉ có 0,001 % dân thế giới hy vọng là Thánh Nhân ??? Hoặc là đệ tử mà thôi !
Theo sự nghiên cứu Lịch Sử , cứ 500 năm mới có 1 thánh nhân ra đời .Với 8 tỉ dân , thì 1 người là bao nhiêu % ? Trong vòng 500 năm?
Bởi thế , sự đau khổ trên thế giới là đương nhiên .
Chính Phật tuyên bố : “ Đời Là Bể Khỗ “ .”Tu Là Cõi Phúc “ .
Thánh nhân đem lại an lạc hạnh phúc quá ít ???
&&&a
Bất ngôn chi giáo 2.
&&&
Như thế ta thấy , với cái học Lão Trang , giá trị và vai trò của cá nhân trong xã hội loài người đã được minh định rõ ràng . Cá nhân không phải là 1 công cụ nô lệ cho xã hội , mà xã hội sở dĩ được tạo ra là để thích ứng và phục vụ con người , giúp cho sự phát triển tự do cá tánh của từng cá nhân trong đó . Đành rằng “ thời thế tạo anh hùng “ nhưng “ anh hùng cũng tạo thời thế “.Con người đâu phải hoàn toàn là sản phẩm xã hội .
Chương 5 , ông nói :” Đa ngôn sổ cùng , bất như thủ trung “ ( Nói nhiều bao nhiêu cũng không sao nói hết được , thà là giữ lấy mực trung ) . Là tại sao ? Đạo , là nguyên lí quân bình . Việc đời có gì lạ ngoài Thị Phi , Thiện Ác ... Nếu bảo đây là Phải , thì lại sợ rằng thiên hạ quá thiên về đó mà đi quá trớn , trở thành cái Quấy . Lạ gì thói đời , làm gì cũng thái quá !
Cái bệnh câu chấp ấy là thông bệnh của con người .Thà là giữ lấy mực Trung , ít nói chừng nào hay chừng nấy :” Hi ngôn tự nhiên “ ( chương 23 ).
Thị Phi , Thiện Ác , Vinh Nhục , Lợi Hại chỉ là bề mặt bề trái của mọi sự vật trên đời , thì lợi cho đây chưa ắt cũng còn là lợi cho kia , phải cho đây chưa ắt cũng còn là phải cho kia ...Cho nên kẻ đạt Đạo không ham biện bạch gì với ai cả : sự hiểu biết do trình độ mà có cao có thấp .
Đồng với ta cho ta là Phải , không đồng với ta cho ta là Quấy . Sự Phải Quấy trong đời bất quá chỉ có bấy nhiêu thôi . Cho nên mới có câu :” Thiện giả bất biện , Biện giả bất thiện “( Chương 81) ( Người thiện không tranh biện , người tranh biện không thiện )
Chữ Thiện đây , có nghĩa là người sành về Đạo , chứ không phải ám chỉ người Lành đối với kẻ Dữ , theo cái nghĩa thông thường về luân lí . Chương 2 nói rất rõ ràng lẽ ấy :” Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ , tư ác dĩ . Giai tri thiện chi vi thiện , tư bất thiện dĩ . Cố hữu vô tương sinh , nan dị tương thành , trường đoản tương hình , cao hạ tương khuynh , âm thanh tương hòa , tiền hậu tương tùy . Thị dĩ thánh nhân , xử vô vi chi sự , hành bất ngôn chi giáo”
( Thiên hạ đều biết tốt là tốt , thì đã có xấu rồi . Đều biết lành là lành , thì đã có cái chẳng lành rồi . Bởi vậy , có và không sanh nhau . Khó và dễ cùng thành . Ngắn và dài cùng sanh . Cao và thấp cùng chiều . Giọng và tiếng cùng hòa , trước và sau cùng theo . Vậy nên Thánh nhân dùng Vô Vi mà xử sự , dùng bất ngôn mà dạy dỗ ). Không phải là không nói , mà không nói đến Thị Phi , Thiện Ác , bởi nói Thị thì Phi dấy lên , nói Thiện thì Ác dấy lên ...
Thực ra , nếu có thể dậy được điều gì , thì chắc chắn ông sẽ không bỏ lỡ cơ hội để chỉ dậy . Ông nói :” Nhơn chi sở giáo , ngã diệc giáo chi “ ( chỗ mà người xưa dậy được , ta nay cũng dạy...) . Dạy cái gì ? Dạy những chân lí thông thường mà không cần minh chứng như câu “ dùng bạo động , chết bạo tàn “ .( Cường lương giả , bất đắc kì tử ) .
Huống chi lời dạy khéo , là lời dạy mà người thụ giáo không hay là được thụ giáo , mà người dạy cũng không dè là mình đã dậy . Đó là dạy 1 cách khéo léo , kín đáo chứ không vinh váo ra mặt thầy đời . Những lời dạy như thế mới là có nhiều kết quả nhất , đó là hành dộng Vô Vi , đó là bất ngôn chi giáo .
“ Thiện hành vô triệt tích , thiện ngôn vô hà trích ...” ( đi khéo không để lại dấu chân , nói khéo không để lỗi lầm ...) Một việc làm được gọi là hoàn toàn khi nào làm mà không ai nhận thấy dấu vết của việc làm . Đó là Vô Vi nhi Vô bất Vi ( không làm , nhưng không có gì mà không làm ).
Bậc đạt Đạo , dạy người mà không ai dè là được dạy , người dạy không cho mình có dạy mà cậy công , người được dậy không hay là mình được dậy mà ghi ân , nên không có sự bội ân .
Lại nữa , sự hiểu biết của ta phải tự ta tìm lấy , không thể do kẻ khác truyền dạy . Là tại sao ? Có dạy được chăng là vì nơi người đã có sẵn mầm tư tưởng mà ta muốn truyền dạy . Nên chi Trang Tử mới nói :” Đồng với ta cho ta là Phải “ và chấp nhận , còn “ không đồng với ta cho ta là Quấy “ và không chấp nhận . Như vậy thì không ai có thể dạy ai được ; ta chỉ khêu gợi được những gì có sẵn nơi tâm trí kẻ khác mà thôi . Đó cũng là 1 trong nhiều nghĩa của “ Bất Ngôn chi giáo “
&&&
Tóm lại , với 4 chữ “ bất ngôn chi giáo “ , đủ chứng minh rằng Lão Tử không bao giờ chủ trương chính sách Ngu Dân như đã có nhiều người ngộ nhận mà gán cho ông . “ Bất ngôn chi giáo “ là phương pháp giáo dục chỉ dùng đến sự khêu gợi , không dùng phép hữu vi mà nhồi sọ , mà bắt buộc kẻ khác phải nhận sự hiểu biết của mình .
Chưa đến lúc nói , thì không nói ; đến lúc phải nói thì chỉ nói nửa lời thôi , cốt để khêu gợi , giúp cho người khải phát cái tri thức tiềm tàng của người , nghĩa là người thông đạt là kẻ giúp cho người suy nghĩ , chứ không phải là người suy nghĩ thế cho người .
Lối nhận xét này của Lão Tử là lối nhận xét chung của phần đông bậc Trí giả Đông Phương . Theo người Đông Phương , 1 sự hiểu biết gì mà không phải tự mình tìm ra , không phải là 1 sự hiểu biết thật , mà là 1 sự hiểu biết nhồi sọ , 1 thứ hiểu biết ngoài da .
Đọc 1 bài văn hay 1 quyển sách mà biết thích và cho là hay là vì nó đồng với chỗ ưa thích của mình và cũng nhờ đó mà nó khêu gợi lên được và làm vang dội tâm hồn mình . Đó là chỗ mà người Đông Phương gọi “ đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu “. Cho nên đọc sách ( về Đạo Học ) theo người Đông Phương không phải là để học thêm của người , mà là để tìm hiểu cái sâu thẳm , khải phát cái mà lòng ấp ủ hoặc đã có sẵn nơi mình mà mình không dè .
Vì vậy , cũng thời 1 câu văn mà có kẻ nghe qua không thấy chút gì rung cảm ; trái lại , có kẻ vừa đọc qua là thấy cả cái người của mình rung chuyển lạ thường . Sách vở Kinh Điển của Đông Phương ( mà quyển Đạo Đức Kinh đây là 1 ) vì thế phần nhiều dùng 1 lối văn rất vắn tắt không lí luận , cũng không minh chứng dài dòng .
Đó là cốt để cho kẻ học hỏi phải dụng công suy nghĩ và lắng nghe cái tiếng dội nơi chỗ thâm sâu của lòng mình . Lời lẽ trong sách chỉ để khêu gợi ... Mà muốn khêu gợi thì chỉ nên nói nửa lời thôi . Đọc sách của Đông Phương viết ra phải nhớ lời nói này của 1 học giả Tây Phương khuyên ta :”Điều quan trọng không phải nơi cái điều mà quyển sách muốn nói với ta , mà nơi những gì quyển sách khêu gợi được nơi lòng ta “ .
Xem như trí thức và lí luận của các hiền giả Đông Phương đâu có kém gì người Tây Phương , thế nhưng tại sao sách vở họ viết ra lại dùng 1 lối văn vắn tắt , không mạch lạc , không minh chứng ? Đó là dụng ý của họ cốt tạo 1 cái học về bề sâu , khêu gợi và làm khải phát cái tiềm lực thiêng liêng tàng ẩn trong đáy lòng người đệ tử hay người đọc sách .
Sự tối tăm cố ý của câu văn có công dụng hấp dẫn của nó là kích thích óc tò mò , sự tìm hiểu ẩn ý của người viết và nhân đó giải phóng những tiềm lực thiêng liêng ẩn núp trong đáy lòng của mình .
Phái Thiền học của Phật Giáo Đại Thừa lại còn đi xa hơn trong vấn đề “bất ngôn chi giáo “ do Lão Tử đề xướng . Họ cho rằng :” Giáo ngoại biệt truyền , bất lập văn tự , trực chỉ nhân tâm , kiến tánh thành Phật “.Vì Đạo học là 1 vấn đề không thể dùng danh từ mà truyền được .
Ông Thầy ở Đông Phương không vội vàng truyền giáo cho bất cứ ai . Dù là đối với các đệ tử của mình đến cầu thụ thỉnh giáo . Ông thầy Đông Phương cũng đợi đến khi nào lòng người cầu Đạo chí thành và đủ sức hiểu biết mới chịu nói ra và cũng chỉ nói nửa lời mà thôi ! Đó là do quan niệm về lối dậy dỗ theo thuyết “bất ngôn chi giáo “ mà ra vậy .
&&&&
Ghi nhận :
Những người tự tìm ra đạo , là những bậc Thánh . Còn chúng ta là người thường , không thể Kiến tánh thành Phật .
Mà cũng chưa đủ nội lực để theo . Nếu cố cưỡng cầu , thì sẽ bị tẩu hỏa nhập ma !( Hiểu biết sai , đưa tới thi hành sai ) . Bởi thế có nhiều tầng hiểu biết cao thấp khác nhau . Kẻ tiểu nhân nghe Đạo thì cười to ...!!!Người trung bình thì nửa tin nửa ngờ !!!
Than ôi , tới 99 % người trên thế giới nửa tin nửa ngờ , và cười to khi nghe nói đến Đạo ! Còn 1 % chưa chắc kiến tánh thành Phật ! Chắc chỉ có 0,001 % dân thế giới hy vọng là Thánh Nhân ??? Hoặc là đệ tử mà thôi !
Theo sự nghiên cứu Lịch Sử , cứ 500 năm mới có 1 thánh nhân ra đời .Với 8 tỉ dân , thì 1 người là bao nhiêu % ? Trong vòng 500 năm?
Bởi thế , sự đau khổ trên thế giới là đương nhiên .
Chính Phật tuyên bố : “ Đời Là Bể Khỗ “ .”Tu Là Cõi Phúc “ .
Thánh nhân đem lại an lạc hạnh phúc quá ít ???
&&&a
Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2008
tam bửu 1
Lão Tử Tinh Hoa – Nguyễn Duy Cần .
Tam Bửu 1 .
&&&
Chương 67 , Lão Tử viết :”Ngô hữu Tam bửu , trì nhi bảo chi : Nhất viết Từ , Nhị viết Kiệm , Tam viết Bất cảm vi thiên hạ tiên . Từ cố năng Dũng , Kiệm cố năng quảng , Bất cảm vi thiên hạ tiên , cố năng thành khí trưởng “. ( Ta có 3 vật báu , hằng nắm giữ và ôm ấp : 1 là Từ , 2 là Kiệm , 3 là không dám đứng trước thiên hạ . Từ mới có Dũng , Kiệm mới có rộng , không dám đứng trước thiên hạ thì được ngôi cao .
&&&
Từ là yêu thương tất cả mọi người bất luận là người lành hay người dữ , tha thứ độ lượng . Chương 49 , ông có nói :” thiện giả ngô thiện chi , bất thiện giả ngô diệc thiện chi ... Tín giả ngô tín chi , bất tín giả ngô diệc tín chi “ ( Với kẻ lành thì lấy lành mà ở , với kẻ chẳng lành cũng lấy lành mà ở ...Với kẻ thành tìn thì lấy thành tín mà ở , với kẻ không thành tín thì cũng lấy thành tín mà ở . Như thế ta thấy rằng Lão Tử rất là hoằng đại đối với tất cả mọi người . Dưới mắt ông không có kẻ thiện người ác , không có kẻ phải người quấy , không có kẻ quí người tiện ... Gần với Bát Nhã Bình đảng của nhà Phật .
Không như Khổng Tử chủ trương “ dĩ trực báo oán , dĩ đức báo đức “, Lão Tử xướng lên thuyết “ báo oán dĩ đức “ .
Lấy đức mà trả oán thì oán mới tiêu tan , lấy trực mà báo oán thì cũng không làm sao dứt được hậu hoạn của lóng thù hận . Nhân đạo phải đứng trên công lí .Với chữ Tử của Lão Tử , ta không lạ gì ông khinh Nhân Nghĩa mà trọng Đạo Đức , lòng rất rộng rãi , không câu chấp , không thiên vị . Đó là hạnh của bậc chí nhân .
Lấy “ oán mà báo oán “ là việc thường tình , lấy “ trực mà báo oán “ thì cao hơn 1 bực , nhưng lấy “ đức mà báo oán “ thì phải là kẻ phi thường , đứng trên loài người vì đã tha thứ , lại còn yêu thương được kẻ đã làm hại ta , phải là bậc chí nhân chí dũng trên đời , phải là kẻ đã thắng được lòng vị kỉ và ham sống của mình . “ Thắng nhơn giả hữu lực , tự thắng giả cường “ .
Kẻ mà thắng được lòng ích kỉ của mình , lấy đức mà trả oán , là kẻ dũng mãnh nhất trên đời . Bởi vậy Lão Tử mới nói :” Từ cố năng Dũng “.
Tóm lại , người mà thực hiện được chữ Từ , là người chí thiện chí tín . Chí thiện nên không thiện riêng với 1 ai , dù với người thiện hay bất thiện . Chí tín nên nên không thành tín với riêng ai , dù là với người thành tín hay không thành tín . Vô Vi của Lão Tử quả là khó khăn cho những ai chưa diệt được Bản Ngã , chưa diệt được lòng “ tham sinh úy tử “của mình , và quả là hành vi của người đại Dũng .
Ta nên để ý đến cái Dũng của bậc Thánh nhân : sở dĩ họ khác với thế nhân là nơi họ , Dũng bao giở cũng căn cứ trên lòng Từ . Bởi vậy Lão Tử mới nói :” Kim xá Từ thả Dũng ...tử hĩ “ ( nếu bỏ Từ mà được Dũng , là chết vậy ) .. Đó là “ thất phu chi dũng “ , đó là cái dũng của kẻ bạo tàn :”Cường lương giả , bất đắc kì tử “ ( dùng bạo lực , chết bạo tàn ) , đó là lẽ dĩ nhiên .
&&&
Căn bản thứ 2 của lão Tử là Kiệm .
Kiệm , tức là biết ức chế lòng thích xa xỉ và thỏa mãn thú tính của nhục thân. Lão Tử thường khuyên ta hãy “ khứ thậm , khứ xa , khứ thái “. Xa là xa xỉ . thái là phung phí kiêu sa , Thói xa hoa là cái bệnh nguy hiểm nhất cho kẻ cầm quyền trị nước .
Kiệm giúp cho ta biết đủ , sống không nô lệ lấy dục vọng , không nô lệ ngoại giới , không nô lệ bất cứ 1 thế lực nào . Trái lại , kẻ sống trong xa hoa ,sớm muộn gì cũng sẽ đi đến nô lệ dưới mọi hình thức . người mà có đức Kiệm là người sống trong đơn giản , không chạy theo cáo phụ mà quên cái chánh của đời người . Cho nên người Kiệm mới có thể có lòng rộng rãi , thứ tha , tự do và làm nên đại sự : kiệm cố năng quảng “.
Cầm quyền trị nước mà sống không Kiệm ước , kiêu sa là cái hại cho nước ; họ sẽ đặt vào đầu dân chúng sưu cao thuế nặng để có đủ mà cung phụng nếp sống củ họ , Người theo Đạo thì : Tổn hữu dư , bổ bất túc “ , trái lại nếu vì lòng ích kỉ ( người xa xỉ là người ích kỉ ) mà “tổn bất túc , bổ hữu dư “ làm cho giàu nghéo quá chênh lệch , giai cấp đấu tranh , phải chăng chính mình gây nên họa chiến tranh , tự mình vời họa đến cho mình .
Chương 53 ,ông nói :” Triều thậm trừ , điền thậm vu , thương thậm hư . Phục văn thái , đái lợi kiếm , yếm ẩm thực , tài hóa hữu dư .Thị vị đạo khoa , phi Đạo dã tai !” ( Triều đình lộng lấy thật , mà ruộng nương đầy cỏ hoang , còn kho đụn thì trống trơn . Áo quần sang trọng thật ,đeokiếm bén , ăn uống chán , của cải thừa . Nhưng đó là đường của đạo tặc , đâu phải dường của Đạo lớn ).
Nếu lâu dài ở chốn triều đình mà lộng lẫy , huy hoàng là nhờ người ta đã “lấy chỗ thiếu “ của dân mà “ bù thêm vào chỗ dư “ của giới giàu sang ở triều đình . Vì thế mới nói “ ruộng nượng đầy cỏ hoang “ ,” kho đụn trống rỗng “ không còn 1 hột thóc . Các bậc Vua Chúa Quan Quyền thì có dư lại có dư thêm , còn chúng dân đã thiếu lại càng thiếu thêm , đó là hậu quả của sự trị nước của kẻ không lấy Kiệm Ước làm đầu .
Bởi vậy , họ ăn mặc cực kì sang trọng , đeo gươm bén , ăn uống chán , của cải thừa ... Như vậy họ là kẻ “ Đạo Khoa “ nghĩa là bọn đạo tặc cướp của kẻ khác để khoa trương ... chứ không phải trị nước theo Đại Đạo , vì theo Đạo phải biết “ bớt chỗ dư bù chỗ thiếu “ Chương 59 , Lão Tử đã nói rõ :” Trị nhân sự thiên mạc nhược sắc . Phù duy sắc , thị vị tảo phục . tảo phục vị chi trọng tích đức . Trọng tích đức tắc vô bất khắc . Vô bất khắc tắc mạc chi kì cực . Mạc chi kì cực khả dĩ hữu quốc “
( Trị người , giúp trời không chi bằng tiết kiệm . Tiết kiệm phải là việc lo đầu tiên . Lấy nó làm việc lo đầu tiên , thì chứa được đức . Chứa được đức , thì không có gì là không thắng được , thì không ai biết được chỗ cùng cực của nó . Không ai biết được chỗ cùng cực của nó , thì mới có thể nắm giữ được nước )
&&&&&&
Ghi nhận :
Xem Lão Tử qua lời bàn của Thu Giang Nguyễn Duy cần , ta thấy không còn gì để nói .
Tất cả đều rõ ràng như ban ngày .
Thế nhưng xã hội Việt Nam , tại sao không có 1 nhà Chính trị yêu dân như con ?
Vẫn còn nhiều bất công vô cùng ! Quả là thế giới này đang đi xuống tậm cùng . Không có ai chăng ? Cả 8 tỉ người ?
Nhưng chỉ có Trung Hoa và Việt Nam , mới là truyền nhân chính ! Thế nhưng đệ tử lại không có ai theo ? Lại càng trái lại với tôn chỉ của Lão Tử !
Như Bill Gates , giàu có trăm tỉ đô la ? Và các bậc cầm quyền chính trên khắp thề giới ! Có ai là nghèo , hay đạo đức thương dân như con đẻ ! Yêu dân như cha mẹ !
Tuyệt nhiên không ? Có lẻ Đạo Đức Kinh là 1 chuyện vô tưởng ? Chuyện Thần Tiên của Trên trời ? Không bao giờ làm được ?
Nếu như thế thì Lão Tử có thể nói là 1 người (Điên ) , là người mơ ước 1 thế giới quá tầm tay của nhân loại .
&
Cũng như Phật , Chúa , cũng không có ai là truyền nhân chính sao ?
&
Mà cả thế giới đều xa đọa .
&
Tam Bửu 1 .
&&&
Chương 67 , Lão Tử viết :”Ngô hữu Tam bửu , trì nhi bảo chi : Nhất viết Từ , Nhị viết Kiệm , Tam viết Bất cảm vi thiên hạ tiên . Từ cố năng Dũng , Kiệm cố năng quảng , Bất cảm vi thiên hạ tiên , cố năng thành khí trưởng “. ( Ta có 3 vật báu , hằng nắm giữ và ôm ấp : 1 là Từ , 2 là Kiệm , 3 là không dám đứng trước thiên hạ . Từ mới có Dũng , Kiệm mới có rộng , không dám đứng trước thiên hạ thì được ngôi cao .
&&&
Từ là yêu thương tất cả mọi người bất luận là người lành hay người dữ , tha thứ độ lượng . Chương 49 , ông có nói :” thiện giả ngô thiện chi , bất thiện giả ngô diệc thiện chi ... Tín giả ngô tín chi , bất tín giả ngô diệc tín chi “ ( Với kẻ lành thì lấy lành mà ở , với kẻ chẳng lành cũng lấy lành mà ở ...Với kẻ thành tìn thì lấy thành tín mà ở , với kẻ không thành tín thì cũng lấy thành tín mà ở . Như thế ta thấy rằng Lão Tử rất là hoằng đại đối với tất cả mọi người . Dưới mắt ông không có kẻ thiện người ác , không có kẻ phải người quấy , không có kẻ quí người tiện ... Gần với Bát Nhã Bình đảng của nhà Phật .
Không như Khổng Tử chủ trương “ dĩ trực báo oán , dĩ đức báo đức “, Lão Tử xướng lên thuyết “ báo oán dĩ đức “ .
Lấy đức mà trả oán thì oán mới tiêu tan , lấy trực mà báo oán thì cũng không làm sao dứt được hậu hoạn của lóng thù hận . Nhân đạo phải đứng trên công lí .Với chữ Tử của Lão Tử , ta không lạ gì ông khinh Nhân Nghĩa mà trọng Đạo Đức , lòng rất rộng rãi , không câu chấp , không thiên vị . Đó là hạnh của bậc chí nhân .
Lấy “ oán mà báo oán “ là việc thường tình , lấy “ trực mà báo oán “ thì cao hơn 1 bực , nhưng lấy “ đức mà báo oán “ thì phải là kẻ phi thường , đứng trên loài người vì đã tha thứ , lại còn yêu thương được kẻ đã làm hại ta , phải là bậc chí nhân chí dũng trên đời , phải là kẻ đã thắng được lòng vị kỉ và ham sống của mình . “ Thắng nhơn giả hữu lực , tự thắng giả cường “ .
Kẻ mà thắng được lòng ích kỉ của mình , lấy đức mà trả oán , là kẻ dũng mãnh nhất trên đời . Bởi vậy Lão Tử mới nói :” Từ cố năng Dũng “.
Tóm lại , người mà thực hiện được chữ Từ , là người chí thiện chí tín . Chí thiện nên không thiện riêng với 1 ai , dù với người thiện hay bất thiện . Chí tín nên nên không thành tín với riêng ai , dù là với người thành tín hay không thành tín . Vô Vi của Lão Tử quả là khó khăn cho những ai chưa diệt được Bản Ngã , chưa diệt được lòng “ tham sinh úy tử “của mình , và quả là hành vi của người đại Dũng .
Ta nên để ý đến cái Dũng của bậc Thánh nhân : sở dĩ họ khác với thế nhân là nơi họ , Dũng bao giở cũng căn cứ trên lòng Từ . Bởi vậy Lão Tử mới nói :” Kim xá Từ thả Dũng ...tử hĩ “ ( nếu bỏ Từ mà được Dũng , là chết vậy ) .. Đó là “ thất phu chi dũng “ , đó là cái dũng của kẻ bạo tàn :”Cường lương giả , bất đắc kì tử “ ( dùng bạo lực , chết bạo tàn ) , đó là lẽ dĩ nhiên .
&&&
Căn bản thứ 2 của lão Tử là Kiệm .
Kiệm , tức là biết ức chế lòng thích xa xỉ và thỏa mãn thú tính của nhục thân. Lão Tử thường khuyên ta hãy “ khứ thậm , khứ xa , khứ thái “. Xa là xa xỉ . thái là phung phí kiêu sa , Thói xa hoa là cái bệnh nguy hiểm nhất cho kẻ cầm quyền trị nước .
Kiệm giúp cho ta biết đủ , sống không nô lệ lấy dục vọng , không nô lệ ngoại giới , không nô lệ bất cứ 1 thế lực nào . Trái lại , kẻ sống trong xa hoa ,sớm muộn gì cũng sẽ đi đến nô lệ dưới mọi hình thức . người mà có đức Kiệm là người sống trong đơn giản , không chạy theo cáo phụ mà quên cái chánh của đời người . Cho nên người Kiệm mới có thể có lòng rộng rãi , thứ tha , tự do và làm nên đại sự : kiệm cố năng quảng “.
Cầm quyền trị nước mà sống không Kiệm ước , kiêu sa là cái hại cho nước ; họ sẽ đặt vào đầu dân chúng sưu cao thuế nặng để có đủ mà cung phụng nếp sống củ họ , Người theo Đạo thì : Tổn hữu dư , bổ bất túc “ , trái lại nếu vì lòng ích kỉ ( người xa xỉ là người ích kỉ ) mà “tổn bất túc , bổ hữu dư “ làm cho giàu nghéo quá chênh lệch , giai cấp đấu tranh , phải chăng chính mình gây nên họa chiến tranh , tự mình vời họa đến cho mình .
Chương 53 ,ông nói :” Triều thậm trừ , điền thậm vu , thương thậm hư . Phục văn thái , đái lợi kiếm , yếm ẩm thực , tài hóa hữu dư .Thị vị đạo khoa , phi Đạo dã tai !” ( Triều đình lộng lấy thật , mà ruộng nương đầy cỏ hoang , còn kho đụn thì trống trơn . Áo quần sang trọng thật ,đeokiếm bén , ăn uống chán , của cải thừa . Nhưng đó là đường của đạo tặc , đâu phải dường của Đạo lớn ).
Nếu lâu dài ở chốn triều đình mà lộng lẫy , huy hoàng là nhờ người ta đã “lấy chỗ thiếu “ của dân mà “ bù thêm vào chỗ dư “ của giới giàu sang ở triều đình . Vì thế mới nói “ ruộng nượng đầy cỏ hoang “ ,” kho đụn trống rỗng “ không còn 1 hột thóc . Các bậc Vua Chúa Quan Quyền thì có dư lại có dư thêm , còn chúng dân đã thiếu lại càng thiếu thêm , đó là hậu quả của sự trị nước của kẻ không lấy Kiệm Ước làm đầu .
Bởi vậy , họ ăn mặc cực kì sang trọng , đeo gươm bén , ăn uống chán , của cải thừa ... Như vậy họ là kẻ “ Đạo Khoa “ nghĩa là bọn đạo tặc cướp của kẻ khác để khoa trương ... chứ không phải trị nước theo Đại Đạo , vì theo Đạo phải biết “ bớt chỗ dư bù chỗ thiếu “ Chương 59 , Lão Tử đã nói rõ :” Trị nhân sự thiên mạc nhược sắc . Phù duy sắc , thị vị tảo phục . tảo phục vị chi trọng tích đức . Trọng tích đức tắc vô bất khắc . Vô bất khắc tắc mạc chi kì cực . Mạc chi kì cực khả dĩ hữu quốc “
( Trị người , giúp trời không chi bằng tiết kiệm . Tiết kiệm phải là việc lo đầu tiên . Lấy nó làm việc lo đầu tiên , thì chứa được đức . Chứa được đức , thì không có gì là không thắng được , thì không ai biết được chỗ cùng cực của nó . Không ai biết được chỗ cùng cực của nó , thì mới có thể nắm giữ được nước )
&&&&&&
Ghi nhận :
Xem Lão Tử qua lời bàn của Thu Giang Nguyễn Duy cần , ta thấy không còn gì để nói .
Tất cả đều rõ ràng như ban ngày .
Thế nhưng xã hội Việt Nam , tại sao không có 1 nhà Chính trị yêu dân như con ?
Vẫn còn nhiều bất công vô cùng ! Quả là thế giới này đang đi xuống tậm cùng . Không có ai chăng ? Cả 8 tỉ người ?
Nhưng chỉ có Trung Hoa và Việt Nam , mới là truyền nhân chính ! Thế nhưng đệ tử lại không có ai theo ? Lại càng trái lại với tôn chỉ của Lão Tử !
Như Bill Gates , giàu có trăm tỉ đô la ? Và các bậc cầm quyền chính trên khắp thề giới ! Có ai là nghèo , hay đạo đức thương dân như con đẻ ! Yêu dân như cha mẹ !
Tuyệt nhiên không ? Có lẻ Đạo Đức Kinh là 1 chuyện vô tưởng ? Chuyện Thần Tiên của Trên trời ? Không bao giờ làm được ?
Nếu như thế thì Lão Tử có thể nói là 1 người (Điên ) , là người mơ ước 1 thế giới quá tầm tay của nhân loại .
&
Cũng như Phật , Chúa , cũng không có ai là truyền nhân chính sao ?
&
Mà cả thế giới đều xa đọa .
&
tam bửu 2
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Tam Bửu 2
&&&
Của báu thứ 3 của Lão Tử , là “không dám đứng trước thiên hạ “ .Người đời thường vịn vào dây mà cho ông là hèn yếu , là chủ trương thoái hóa , chống với tiến bộ .
Thật có đúng như vậy , nếu người ta quan niệm “ tiến bộ “ là tranh hơn tranh thua để tìm cách đứng trên đầu trên cổ đồng loại mới hả lòng cho , thì Lão Tử quả thật là người chủ trương không nên tiến bộ kiểu ấy .Và như vậy , cho rằng ông chủ trương phản tiến hóa cũng không sao .
Huống chi Lão Tử cho rằng mỗi người mỗi vật đều mang nơi mình 1 cái Lí độc nhất vô nhị . Lí ấy đồng với Đạo . Theo ông thì “ phản giả Đạo chi động “ Nghĩa là cái động của Đạo là trở về . Trở về là “phục qui kì căn “ ( trở về nguồn gốc ) tức là trở về với cái Đạo nơi mình . Như vậy , thì thuyết tiến hóa chủ trương sự trở nên , nghĩa là trở nên 1 cái gì mà mình chưa có bằng sự chiếm đoạt , thu trữ ngoại vật là trái với cái chủ chỉ của Lão Tử rất xa vậy .
Còn bảo rằng :” không dám đứng trước thiên hạ “ là hèn yếu lại cáng không đúng .Thích đứng trước và đứng trên thiên hạ phãi chăng là cái tật chung của những con người bị tâm cảm tự ti ? Trái lại , kẻ mà nơi trong đầy đủ lại không thích đứng trên thiên hạ mà trái lại hay nhún nhường là khác . Cùng 1 nghĩa với những câu :” tri kì hùng , thủ kì thư , tri kì bạch , thủ kì hắc . Tri kì vinh , thủ kì nhục “ ( Mình là con đực , hãy làm như con cái . Mình là trắng , hãy làm như đen . Mình là vinh , hãy giữ làm nhục )
Như vậy đâu phải là hèn nhát , mà lại là 1 sự đại dũng trong đời . Kẻ thắng được lòng tự tôn tự đại , thắng được lòng ham danh hiếu thắng , đâu phải kẻ tầm thường mà làm được . “ Thắng nhân giả hữu lực , tự thắng giả cường “ ( Thắng người là kẻ có sức , nhưng thắng mình mới là người mạnh ) . Chương 66, ông nói : Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả , dĩ kì thiện hạ chi ... Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi , dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi . Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng , xử tiền nhi dân bất hại . Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm . Dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ . ( Sông biển sở dĩ làm đặng Vua trăm hang là vì nó khéo đứng dưới thấp ... Bởi vậy , muốn ngồi trên dân , hẳn nên lấy lời mà hạ mình . Muốn đứng trước dân , hẳn nên lấy mình để ra sau . vậy nên , bậc Thánh nhân ở trên mà dân không hay nặng , ở trước mà dân không thấy hại . Vì thế , thiên hạ không chán , lại còn đẩy tới trước .. Bởi đó không tranh nên thiên hạ không cùng tranh với đó được ) .
Lão Tử lấy sông biển để cụ thế hóa và minh chướng chủ trương “ không dám đứng trước thiên hạ “... Nếu muốn ngồi trên trên dân chúng hãy tự mình khiêm cung nhũn nhặn . Và nếu muốn cầm đầu nhân dân phải biết đứng đằng sau lưng họ . Đây là nguyên tắc xử thế điển hình của Lão Tử thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách của ông .
Cũng đồng 1 ý với câu “ hâu kì thân nhi thân tiên “ ( để thân ra sau mà thân ra trước ). Và “ quí dĩ tiện vi bổn , cao dĩ hạ vi cơ . Thị dĩ Hầu vương tự vị cô quả bất cốc . Thử dĩ kì tiện vi bổn da ? Phi hồ ?“ ( quí lấy tiện làm gốc , cao lấy thấp làm nền . Nên chi , hầu vương tự xưng là con côi , ít đức , không lành . Đó là lấy tiện làm gốc không phải vậy sao ? )
Bậc thánh nhân trị nước ngồi trên đầu nhân dân mà nhân dân không hay là mình ngồi trên đầu . Dẫn đạo nhân dân mà nhân dân không cảm thấy bàn tay của mình dẫn dắt . Là nhờ họ “ không dám đứng trước thiên hạ “. Bởi vậy người dân không chán , lại còn đưa mình lên ngôi cao . Bởi luôn luôn đứng dưới thấp và ở đằng sau nên người dân không có chỗ để tranh chấp , cho nên mới nói : “ Vì không tranh mà thiên hạ không sao cùng tranh với họ được “. Thuyết Bất Tranh của Lão Tử cũng do thuyết “bất cảm vi thiên hạ tiên “ mà ra .
Trị nước bằng Đạo Hữu Vi lại không thế :” thích ăn trên ngồi trước , thích lấy cái trị mà trị thiên hạ , thích lấy ý riêng mà can thiệp đến việc riêng tư của thiên hạ ... nên người dân cảm thấy mình bị trị quá rõ ràng . Do đó mà người dân mới sinh ra tâm trạng chống đối . Và nhân thế ,bậc trị nước phải lo đề phòng và củng cố uy quyền mình bằng luật lệ bủa giăng ... Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau , thì trước sau gì cũng sẽ có kẻ thắng người bại .
Ngày mà người dân cảm thấy sức nặng của người trên đè xuống , cảm thấy cái bàn tay dẫn dắt chỉ đạo quá gắt gao còng giữ , họ sẽ đâm chán , mong vứt quăng gánh nặng , vượt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng . Dùng đạo Hữu Vi mà trị nước là tạo ra cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta ...là nguy . Cho nên ông mới nói :”Xã hậu thả tiên ... tử hĩ ”. ( Bỏ sau để đứng trước , là chết vậy )
Thật vậy “ làm bậc trên thiên hạ mà thiếu tư cách thành thực khiêm nhu từ tốn ,việc gì cũng chỉ muốn ngồi trên đầu trên cổ dân mà trị , tức là làm nhục thiên hạ , thế mà không chết thì là 1 sự may mắn lạ thường “.
&&&
Tóm lại , sự Lão Tử nói :” ta có 3 vật báu “ thế là ta có thể hiểu 3 vật báu ấy là 3 cái chủ nghĩa lớn của ông đem ra xử thế . Mà chữ Từ là đứng đầu , 2 báu kia đều do đó mà ra cả . Kiệm , là cũng nhờ lòng Từ , không nỡ xa xỉ , mình có dư mà người người thốn thiếu .” Bất cảm vi thiên hạ tiên “ là không tranh dành cái việc làm nhục vào lòng người . Phải chăng cũng do lòng Từ mà có được cử chỉ quên mình ấy . Cho nên rút lại mà nói thì Từ là đầu mối của Đạo xử thế của ông .
Có người bảo rằng Từ đây cũng giống với thuyết Kiêm Ái . “ Bất cảm vi thiên hạ tiên “ giống với thuyết “Phi công “ .Và Kiệm giống với thuyết Tiết Dụng của Mặc Tử . Nhận xét thế là nông cạn . Chữ Từ của Lão Tử có 1 nguồn gốc siêu hình , còn chủ thuyết Kiêm ái của mặc Tử chỉ bắt nguồn ở vấn đề hình thức xã hội mà thôi . Ngay 1 chữ Từ ấy cũng đã thấy không thể cùng so sánh với nhau rồi . Các quan niệm kia đều theo đó mà suy ra không thể có sự so sánh cho được .
&&&
Chú thích :
Nên so sánh với ý nghĩa của quẻ Khiêm trong Dịch Kinh . Nội quái là Cấn ( sơn ) , ngoại quái là Khôn ( địa ) .
--- ---
--- ---
--- ---
--------
--- ---
--- ---
Địa Sơn Khiêm , là tượng núi cao mà mọc trong lòng đất thấp . Quẻ Khiêm thì nội quái là núi cao , ngoại quái là đất thấp . Nội là thực thể ( bên trong ) , ngoại là hình dung ( bên ngoài ) .
Người ta chỉ nhờ khéo ở chỗ thấp kém mà đức vượt lên cao .Đó là ý nghĩa của quẻ Khiêm .tức là Khiêm nhu từ tốn , mà có kẻ cho rằng Lão Tử đã mượn , để lập ra cái thuyết “ bất cảm vi thiên hạ tiên “ của ông .
Dịch Kinh nói “Khiêm hanh , quân tử hữu chung “ Quẻ Khiêm là hanh thông , người quân tử được sự sau cùng . Nho gia là Trình Tử nhân đó bàn rằng :” Có đức mà không tự nhận , gọi là Khiêm . Người ta lấy sự khiêm tốn xử sự thì đi đâu mà không hanh thông ?
“Quân tử hữu chung “ nghĩa là người quân tử chí ở khiêm tốn suốt lẽ , nên vui với mạng trời mà không cạnh tranh . Bên trong của họ đầy đủ cho nên tự mình nhún nhường , không khoe khoang , không khoa trương , yên lặng trong sự khiêm tốn suốt đời mà không đổi ; mình tự hạ mình mà người ta càng tôn lên . Mình tự che cho tối đi mà đức càng sáng tỏ , đó là người quân tử “ hữu chung “ .
Tính người thì ghen ghét kẻ tự mãn mà yêu thích người khiêm tốn . Khiêm là cái đức cao tột của người , cho nên thánh nhân nói kĩ để răn kẻ tự mãn và khuyến khích kẻ nhún nhường
Ở hào sơ lục lại nói :” Khiêm khiêm quân tử , dụng thiệp đại xuyên , cát “. ( hào sơ lục , người quân tử đã nhún lại nhún thêm , dùng sang sông lớn được , tốt )
Đã khiêm lại càng khiêm hơn nữa , nên gọi “khiêm khiêm “ tức là nếu biết cư xử cực kì thấp kém , thì mọi người cùng về với mình , dù đã qua sông lớn còn không lo hại , huống chi ở nơi bình địa mà xử thế được như vậy , có gì phải lo đến hậu hoạn .
Chu Tử nói :” Là hào nhu thuận ở dưới , là sự nhún nhường đến tột cùng , đó là nết của người quân tử “ .
&&&&&&&
Tam Bửu 2
&&&
Của báu thứ 3 của Lão Tử , là “không dám đứng trước thiên hạ “ .Người đời thường vịn vào dây mà cho ông là hèn yếu , là chủ trương thoái hóa , chống với tiến bộ .
Thật có đúng như vậy , nếu người ta quan niệm “ tiến bộ “ là tranh hơn tranh thua để tìm cách đứng trên đầu trên cổ đồng loại mới hả lòng cho , thì Lão Tử quả thật là người chủ trương không nên tiến bộ kiểu ấy .Và như vậy , cho rằng ông chủ trương phản tiến hóa cũng không sao .
Huống chi Lão Tử cho rằng mỗi người mỗi vật đều mang nơi mình 1 cái Lí độc nhất vô nhị . Lí ấy đồng với Đạo . Theo ông thì “ phản giả Đạo chi động “ Nghĩa là cái động của Đạo là trở về . Trở về là “phục qui kì căn “ ( trở về nguồn gốc ) tức là trở về với cái Đạo nơi mình . Như vậy , thì thuyết tiến hóa chủ trương sự trở nên , nghĩa là trở nên 1 cái gì mà mình chưa có bằng sự chiếm đoạt , thu trữ ngoại vật là trái với cái chủ chỉ của Lão Tử rất xa vậy .
Còn bảo rằng :” không dám đứng trước thiên hạ “ là hèn yếu lại cáng không đúng .Thích đứng trước và đứng trên thiên hạ phãi chăng là cái tật chung của những con người bị tâm cảm tự ti ? Trái lại , kẻ mà nơi trong đầy đủ lại không thích đứng trên thiên hạ mà trái lại hay nhún nhường là khác . Cùng 1 nghĩa với những câu :” tri kì hùng , thủ kì thư , tri kì bạch , thủ kì hắc . Tri kì vinh , thủ kì nhục “ ( Mình là con đực , hãy làm như con cái . Mình là trắng , hãy làm như đen . Mình là vinh , hãy giữ làm nhục )
Như vậy đâu phải là hèn nhát , mà lại là 1 sự đại dũng trong đời . Kẻ thắng được lòng tự tôn tự đại , thắng được lòng ham danh hiếu thắng , đâu phải kẻ tầm thường mà làm được . “ Thắng nhân giả hữu lực , tự thắng giả cường “ ( Thắng người là kẻ có sức , nhưng thắng mình mới là người mạnh ) . Chương 66, ông nói : Giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả , dĩ kì thiện hạ chi ... Thị dĩ dục thượng dân tất dĩ ngôn hạ chi , dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi . Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân bất trọng , xử tiền nhi dân bất hại . Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất yếm . Dĩ kì bất tranh , cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh “ . ( Sông biển sở dĩ làm đặng Vua trăm hang là vì nó khéo đứng dưới thấp ... Bởi vậy , muốn ngồi trên dân , hẳn nên lấy lời mà hạ mình . Muốn đứng trước dân , hẳn nên lấy mình để ra sau . vậy nên , bậc Thánh nhân ở trên mà dân không hay nặng , ở trước mà dân không thấy hại . Vì thế , thiên hạ không chán , lại còn đẩy tới trước .. Bởi đó không tranh nên thiên hạ không cùng tranh với đó được ) .
Lão Tử lấy sông biển để cụ thế hóa và minh chướng chủ trương “ không dám đứng trước thiên hạ “... Nếu muốn ngồi trên trên dân chúng hãy tự mình khiêm cung nhũn nhặn . Và nếu muốn cầm đầu nhân dân phải biết đứng đằng sau lưng họ . Đây là nguyên tắc xử thế điển hình của Lão Tử thường được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong sách của ông .
Cũng đồng 1 ý với câu “ hâu kì thân nhi thân tiên “ ( để thân ra sau mà thân ra trước ). Và “ quí dĩ tiện vi bổn , cao dĩ hạ vi cơ . Thị dĩ Hầu vương tự vị cô quả bất cốc . Thử dĩ kì tiện vi bổn da ? Phi hồ ?“ ( quí lấy tiện làm gốc , cao lấy thấp làm nền . Nên chi , hầu vương tự xưng là con côi , ít đức , không lành . Đó là lấy tiện làm gốc không phải vậy sao ? )
Bậc thánh nhân trị nước ngồi trên đầu nhân dân mà nhân dân không hay là mình ngồi trên đầu . Dẫn đạo nhân dân mà nhân dân không cảm thấy bàn tay của mình dẫn dắt . Là nhờ họ “ không dám đứng trước thiên hạ “. Bởi vậy người dân không chán , lại còn đưa mình lên ngôi cao . Bởi luôn luôn đứng dưới thấp và ở đằng sau nên người dân không có chỗ để tranh chấp , cho nên mới nói : “ Vì không tranh mà thiên hạ không sao cùng tranh với họ được “. Thuyết Bất Tranh của Lão Tử cũng do thuyết “bất cảm vi thiên hạ tiên “ mà ra .
Trị nước bằng Đạo Hữu Vi lại không thế :” thích ăn trên ngồi trước , thích lấy cái trị mà trị thiên hạ , thích lấy ý riêng mà can thiệp đến việc riêng tư của thiên hạ ... nên người dân cảm thấy mình bị trị quá rõ ràng . Do đó mà người dân mới sinh ra tâm trạng chống đối . Và nhân thế ,bậc trị nước phải lo đề phòng và củng cố uy quyền mình bằng luật lệ bủa giăng ... Giữa cấp thống trị và bị trị đã có chỗ tranh nhau , thì trước sau gì cũng sẽ có kẻ thắng người bại .
Ngày mà người dân cảm thấy sức nặng của người trên đè xuống , cảm thấy cái bàn tay dẫn dắt chỉ đạo quá gắt gao còng giữ , họ sẽ đâm chán , mong vứt quăng gánh nặng , vượt khỏi cái bàn tay sắt buộc ràng . Dùng đạo Hữu Vi mà trị nước là tạo ra cho nhân dân có chỗ cùng tranh với ta ...là nguy . Cho nên ông mới nói :”Xã hậu thả tiên ... tử hĩ ”. ( Bỏ sau để đứng trước , là chết vậy )
Thật vậy “ làm bậc trên thiên hạ mà thiếu tư cách thành thực khiêm nhu từ tốn ,việc gì cũng chỉ muốn ngồi trên đầu trên cổ dân mà trị , tức là làm nhục thiên hạ , thế mà không chết thì là 1 sự may mắn lạ thường “.
&&&
Tóm lại , sự Lão Tử nói :” ta có 3 vật báu “ thế là ta có thể hiểu 3 vật báu ấy là 3 cái chủ nghĩa lớn của ông đem ra xử thế . Mà chữ Từ là đứng đầu , 2 báu kia đều do đó mà ra cả . Kiệm , là cũng nhờ lòng Từ , không nỡ xa xỉ , mình có dư mà người người thốn thiếu .” Bất cảm vi thiên hạ tiên “ là không tranh dành cái việc làm nhục vào lòng người . Phải chăng cũng do lòng Từ mà có được cử chỉ quên mình ấy . Cho nên rút lại mà nói thì Từ là đầu mối của Đạo xử thế của ông .
Có người bảo rằng Từ đây cũng giống với thuyết Kiêm Ái . “ Bất cảm vi thiên hạ tiên “ giống với thuyết “Phi công “ .Và Kiệm giống với thuyết Tiết Dụng của Mặc Tử . Nhận xét thế là nông cạn . Chữ Từ của Lão Tử có 1 nguồn gốc siêu hình , còn chủ thuyết Kiêm ái của mặc Tử chỉ bắt nguồn ở vấn đề hình thức xã hội mà thôi . Ngay 1 chữ Từ ấy cũng đã thấy không thể cùng so sánh với nhau rồi . Các quan niệm kia đều theo đó mà suy ra không thể có sự so sánh cho được .
&&&
Chú thích :
Nên so sánh với ý nghĩa của quẻ Khiêm trong Dịch Kinh . Nội quái là Cấn ( sơn ) , ngoại quái là Khôn ( địa ) .
--- ---
--- ---
--- ---
--------
--- ---
--- ---
Địa Sơn Khiêm , là tượng núi cao mà mọc trong lòng đất thấp . Quẻ Khiêm thì nội quái là núi cao , ngoại quái là đất thấp . Nội là thực thể ( bên trong ) , ngoại là hình dung ( bên ngoài ) .
Người ta chỉ nhờ khéo ở chỗ thấp kém mà đức vượt lên cao .Đó là ý nghĩa của quẻ Khiêm .tức là Khiêm nhu từ tốn , mà có kẻ cho rằng Lão Tử đã mượn , để lập ra cái thuyết “ bất cảm vi thiên hạ tiên “ của ông .
Dịch Kinh nói “Khiêm hanh , quân tử hữu chung “ Quẻ Khiêm là hanh thông , người quân tử được sự sau cùng . Nho gia là Trình Tử nhân đó bàn rằng :” Có đức mà không tự nhận , gọi là Khiêm . Người ta lấy sự khiêm tốn xử sự thì đi đâu mà không hanh thông ?
“Quân tử hữu chung “ nghĩa là người quân tử chí ở khiêm tốn suốt lẽ , nên vui với mạng trời mà không cạnh tranh . Bên trong của họ đầy đủ cho nên tự mình nhún nhường , không khoe khoang , không khoa trương , yên lặng trong sự khiêm tốn suốt đời mà không đổi ; mình tự hạ mình mà người ta càng tôn lên . Mình tự che cho tối đi mà đức càng sáng tỏ , đó là người quân tử “ hữu chung “ .
Tính người thì ghen ghét kẻ tự mãn mà yêu thích người khiêm tốn . Khiêm là cái đức cao tột của người , cho nên thánh nhân nói kĩ để răn kẻ tự mãn và khuyến khích kẻ nhún nhường
Ở hào sơ lục lại nói :” Khiêm khiêm quân tử , dụng thiệp đại xuyên , cát “. ( hào sơ lục , người quân tử đã nhún lại nhún thêm , dùng sang sông lớn được , tốt )
Đã khiêm lại càng khiêm hơn nữa , nên gọi “khiêm khiêm “ tức là nếu biết cư xử cực kì thấp kém , thì mọi người cùng về với mình , dù đã qua sông lớn còn không lo hại , huống chi ở nơi bình địa mà xử thế được như vậy , có gì phải lo đến hậu hoạn .
Chu Tử nói :” Là hào nhu thuận ở dưới , là sự nhún nhường đến tột cùng , đó là nết của người quân tử “ .
&&&&&&&
Thứ Năm, 21 tháng 2, 2008
Huyền Đồng 1
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Huyền Đồng 1
&&&
Chương 56 có đoạn : ” Tỏa kì nhuệ , giải kì phân , hòa kì quang , đồng kì trần . Thị vị Huyền Đồng . Cố bất khả đắc nhi thân , bất khả đắc nhi sơ , bất khả đắc nhi lợi , bất khả đắc nhi hại , bất khả đắc nhi quí , bất khả đắc nhi tiện .Cố vi thiên hạ quí “ ( Nhụt bén nhọn ,bỏ chia phân , hòa ánh sáng , đồng bụi bậm , ấy gọi là Huyền Đồng . Thế nên không thể lấy chỗ thân mà được , không thể lấy chỗ sơ mà được , không thể lấy chỗ lợi mà được , không thể lấy chỗ hại mà được , không thể lấy chỗ quí mà được , không thể lấy chỗ tiện mà được . Vì vậy , dưới trời không gì quí hơn )
Nơi chương 1 , Lão Tử đã định nghĩa chữ Huyền là “ đồng vị chi Huyền “ nghĩa là Đồng với nhau nên gọi là Huyền . Cái gì đồng với nhau ? Đạo và Đức , Vô Danh và Hữu Danh , Nhĩ và Ngã ,Thị và Phi , Thiện và Ác ...Huyền Đức , nghĩa là cái Đức của người đã hỗn hợp cùng vời Đại Toàn Thể , đã thực hiện được sự đồng nhất với trung tâm sự Sống của Vạn Vật , không còn thấy có Ta có Người , có Trong có Ngoài , có Phải có Quấy , có Lợi có Hại , có Lành có Dữ , có Vinh có Nhục , có Sống có Chết ...
Người như thế là người không còn chia phân Nhĩ Ngã , tức là người không còn thấy mình khác biệt với người ... Sở dĩ người ta thường hay ưa khoa trương , ưa khoe khoang , ưa những cái sắc sảo bén nhọn , cạnh góc , là để biểu dương cái hay , cái giỏi của mình , để mà nâng cái bản ngã của mình lên , dìm cái hay cái giỏi của kẻ khác xuống đặng làm cho mình càng thêm khác biệt kẻ khác , làm cho Nhĩ Ngã càng thêm chia cách .
Trái lại người Hữu Đạo , thì càng tìm cách “ làm nhụt sự bén nhọn “ của mình làm cho kẻ khác đừng thấy chỗ sắc sảo nhọn bén của mình đi , che giấu sự thông minh có khía cạnh của mình đi . Đó là cái Đức Huyền Đồng :” Tỏa kì nhuệ “ ( nhụt bén nhọn cạnh góc ).
Huyền Đồng cũng có nghĩa là “ bỏ chia phân “ ( giải kì phân ) . Chữ phân ở đây có nghĩa là sự phân chia của óc nhị nguyên , óc phân chia cái Sống Một của vạn sự vạn vật . Giải kì phân là giải thoát tâm hồn trí não của ta ra khỏi cái óc phân chia sự vật . Những cặp mâu thuẫn đối đích như Thị Phi , Thiện Ác , chỉ là bề mặc bề trái của 1 thực tại mà thôi .
Động là ở trong Tịnh mà ra , Tịnh nhân Động mà có , Vật nhờ Tâm mà thông .Tâm nhờ Vật mà hiện . Hai thứ đối đích ấy cùng đồng 1 gốc mà ra , tuy 2 mà la 1 . Không có Âm thì Dương không nơi nương tựa , mà không có Dương thì Âm làm sao chuyển vận . Người ta không thể quan niệm Động mà không có Tịnh , Sáng mà không có Tối . Sự liên quan của 2 lẽ đối đích ấy rất chặt chẽ , không bao giờ có thể rời nhau . Khoa học nguyên tử ngày nay cũng không nói khác hơn .
Huyền Đồng cũng có nghĩa là đem cái Sáng của mình để mà hòa với cái Sáng của người , chứ không tự tôn tự đại , tự xem mình là Sáng hơn người , đem cái Sáng của mình để cố che lấp cái Sáng của kẻ khác , hoặc để lòe người , để lấn áp kẻ khác , để nâng mình lên , dìm kẻ khác , để phân biệt mình và người ...Bậc hiểu và hành Đạo , cho rằng tất cả cái Sáng của mọi người đều cùng Đồng 1 cái Sáng Chung mà ra cả . Cho nên mới gọi Huyền Đồng là “hòa kì quang “.
Kẻ biết Đạo , chẳng những đem cái Sáng của mình để hòa đồng với cái Sáng của mọi người , mà cũng đem cái không Sáng của mình , những cái bụi bậm của mình mà Huyền Đồng với cái bụi bậm của đời , không cho thấy sự khác biệt vời đời ... Bậc đạt Đạo , không phân tách mình với đời , mà xem cả 2 là 1 “thử lưỡng giả đồng “ .
Vì vậy , người đạt Đạo tức là người đã Huyền Đồng mọi sự phân biệt về Vinh Nhục , Lợi hại , Quí Tiện , Thân Sơ , thì làm gì còn lấy được sự Thân , sự Lợi , sự Quí để mà dỗ , hoặc lấy sự Sơ , sự Hại , sự Tiện mà dọa . Cho nên người đạt Đạo , đến được chỗ Huyền Đồng với Đạo, sẽ là người điềm đạm chí cực , không còn 1 thế lực ngoại giới nào trên đời làm lay chuyển hay lung lạc được tâm hồn họ nữa . Cho nên , mới nói :” dưới trời chưa có kẻ nào quí bằng hạng người đó “ .
Léon Wieger dịch chữ Huyền Đồng là Mystérieuse Union au Principe , tức là sự “ hỗn hợp huyền bí với đạo “ , còn Pierre Leyris thì dịch Identite mystérieuse . Người cầm quyền trị nước , muốn thực hiện được sứ mạng của mình cũng phải biết “ Huyền Đồng “ với nhân dân , lấy cái lòng của nhân dân làm cái lòng của mình . ( Dĩ bách tánh tâm chi tâm ) , lấy cái lo của thiên hạ làm cái lo của mình .
&&&&&&&
Huyền Đồng 1
&&&
Chương 56 có đoạn : ” Tỏa kì nhuệ , giải kì phân , hòa kì quang , đồng kì trần . Thị vị Huyền Đồng . Cố bất khả đắc nhi thân , bất khả đắc nhi sơ , bất khả đắc nhi lợi , bất khả đắc nhi hại , bất khả đắc nhi quí , bất khả đắc nhi tiện .Cố vi thiên hạ quí “ ( Nhụt bén nhọn ,bỏ chia phân , hòa ánh sáng , đồng bụi bậm , ấy gọi là Huyền Đồng . Thế nên không thể lấy chỗ thân mà được , không thể lấy chỗ sơ mà được , không thể lấy chỗ lợi mà được , không thể lấy chỗ hại mà được , không thể lấy chỗ quí mà được , không thể lấy chỗ tiện mà được . Vì vậy , dưới trời không gì quí hơn )
Nơi chương 1 , Lão Tử đã định nghĩa chữ Huyền là “ đồng vị chi Huyền “ nghĩa là Đồng với nhau nên gọi là Huyền . Cái gì đồng với nhau ? Đạo và Đức , Vô Danh và Hữu Danh , Nhĩ và Ngã ,Thị và Phi , Thiện và Ác ...Huyền Đức , nghĩa là cái Đức của người đã hỗn hợp cùng vời Đại Toàn Thể , đã thực hiện được sự đồng nhất với trung tâm sự Sống của Vạn Vật , không còn thấy có Ta có Người , có Trong có Ngoài , có Phải có Quấy , có Lợi có Hại , có Lành có Dữ , có Vinh có Nhục , có Sống có Chết ...
Người như thế là người không còn chia phân Nhĩ Ngã , tức là người không còn thấy mình khác biệt với người ... Sở dĩ người ta thường hay ưa khoa trương , ưa khoe khoang , ưa những cái sắc sảo bén nhọn , cạnh góc , là để biểu dương cái hay , cái giỏi của mình , để mà nâng cái bản ngã của mình lên , dìm cái hay cái giỏi của kẻ khác xuống đặng làm cho mình càng thêm khác biệt kẻ khác , làm cho Nhĩ Ngã càng thêm chia cách .
Trái lại người Hữu Đạo , thì càng tìm cách “ làm nhụt sự bén nhọn “ của mình làm cho kẻ khác đừng thấy chỗ sắc sảo nhọn bén của mình đi , che giấu sự thông minh có khía cạnh của mình đi . Đó là cái Đức Huyền Đồng :” Tỏa kì nhuệ “ ( nhụt bén nhọn cạnh góc ).
Huyền Đồng cũng có nghĩa là “ bỏ chia phân “ ( giải kì phân ) . Chữ phân ở đây có nghĩa là sự phân chia của óc nhị nguyên , óc phân chia cái Sống Một của vạn sự vạn vật . Giải kì phân là giải thoát tâm hồn trí não của ta ra khỏi cái óc phân chia sự vật . Những cặp mâu thuẫn đối đích như Thị Phi , Thiện Ác , chỉ là bề mặc bề trái của 1 thực tại mà thôi .
Động là ở trong Tịnh mà ra , Tịnh nhân Động mà có , Vật nhờ Tâm mà thông .Tâm nhờ Vật mà hiện . Hai thứ đối đích ấy cùng đồng 1 gốc mà ra , tuy 2 mà la 1 . Không có Âm thì Dương không nơi nương tựa , mà không có Dương thì Âm làm sao chuyển vận . Người ta không thể quan niệm Động mà không có Tịnh , Sáng mà không có Tối . Sự liên quan của 2 lẽ đối đích ấy rất chặt chẽ , không bao giờ có thể rời nhau . Khoa học nguyên tử ngày nay cũng không nói khác hơn .
Huyền Đồng cũng có nghĩa là đem cái Sáng của mình để mà hòa với cái Sáng của người , chứ không tự tôn tự đại , tự xem mình là Sáng hơn người , đem cái Sáng của mình để cố che lấp cái Sáng của kẻ khác , hoặc để lòe người , để lấn áp kẻ khác , để nâng mình lên , dìm kẻ khác , để phân biệt mình và người ...Bậc hiểu và hành Đạo , cho rằng tất cả cái Sáng của mọi người đều cùng Đồng 1 cái Sáng Chung mà ra cả . Cho nên mới gọi Huyền Đồng là “hòa kì quang “.
Kẻ biết Đạo , chẳng những đem cái Sáng của mình để hòa đồng với cái Sáng của mọi người , mà cũng đem cái không Sáng của mình , những cái bụi bậm của mình mà Huyền Đồng với cái bụi bậm của đời , không cho thấy sự khác biệt vời đời ... Bậc đạt Đạo , không phân tách mình với đời , mà xem cả 2 là 1 “thử lưỡng giả đồng “ .
Vì vậy , người đạt Đạo tức là người đã Huyền Đồng mọi sự phân biệt về Vinh Nhục , Lợi hại , Quí Tiện , Thân Sơ , thì làm gì còn lấy được sự Thân , sự Lợi , sự Quí để mà dỗ , hoặc lấy sự Sơ , sự Hại , sự Tiện mà dọa . Cho nên người đạt Đạo , đến được chỗ Huyền Đồng với Đạo, sẽ là người điềm đạm chí cực , không còn 1 thế lực ngoại giới nào trên đời làm lay chuyển hay lung lạc được tâm hồn họ nữa . Cho nên , mới nói :” dưới trời chưa có kẻ nào quí bằng hạng người đó “ .
Léon Wieger dịch chữ Huyền Đồng là Mystérieuse Union au Principe , tức là sự “ hỗn hợp huyền bí với đạo “ , còn Pierre Leyris thì dịch Identite mystérieuse . Người cầm quyền trị nước , muốn thực hiện được sứ mạng của mình cũng phải biết “ Huyền Đồng “ với nhân dân , lấy cái lòng của nhân dân làm cái lòng của mình . ( Dĩ bách tánh tâm chi tâm ) , lấy cái lo của thiên hạ làm cái lo của mình .
&&&&&&&
Huyền Đồng 2
Lão Tử Đạo Đức Kinh- Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Huyền Đồng 2.
&&&
Đối với tất cả mọi hiện tướng trên đời đều chứa đựng mâu thuẫn , nhưng những mâu thuẫn đều chỉ là bề mặt bề trái của thực tại . Người đã thực hiện được sự Huyền Đồng nơi bản thân , hỗn hợp được Tâm và Trí , Thần và Vật , thì cũng sẽ Huyền Đồng được với tất cả vạn vật bên ngoài , không còn thấy Ta thấy Người , mà nhận thấy tất cả Nội Ngoại, Chủ Khách đều là 1 cả .
Nhân đó , ta sẽ không còn thấy cái mà ta gọi là Ta riêng tư nữa , nguyên nhân của tất cả sự đau khổ trên đời :” Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả ,vi ngô hữu thân . Cập ngpo6 vo6tha6n , ngô hữu hà hoạn “ . Hữu thân , đây là chỉ về cái Bản Ngã của mình .Con người vì quá lo lắng cho cái Bản Ngã của mình mới gây nên sự “lo lớn “ . Cho nên ta không nghĩ đến mình nữa thì làm gì có lo ?
Như vậy , ta có thể nói rằng người đã đạt đến trạng thái Huyền Đồng , nghĩa là người đã diệt được Bản Ngã , đã đồng hóa với Đạo rồi , thì sẽ giải quyết ngay được các mâu thuẫn to tát nơi tâm hồn , không còn thấy sự đèo bòng tham muốn cái bên ngoài , những dục vọng chiếm đoạt làm của riêng , đề cao mình để phủ nhận kẻ khác , không còn tự ti cũng chẳng tự tôn , đó là người đã nhờ phép Huyền Đồng mà được cái Đức Huyền của Đạo .
Nên mới nói :” Đạo sinh chi , Đức súc chi . Trưởng chi dục chi , đình chi độc chi , dưỡng chi phúc chi . Sinh chi bất hữu , vi nhi bất thị , trưởng nhi bất tể , thị vị Huyền Đức “
( Đạo sinh đó , Đức nuôi đó , cấp dưỡng đó , nuôi nấng đó , đùm bọc đó . Bồi sức đó , đưỡng nuôii đó , chở che đó , Sinh mà không chiếm làm của mình , làm mà không cậy công , làm bậc trên mà không làm chủ ,gọi là Huyền Đức ) .
Đạo và Đức có công sanh và thành vạn vật , nhưng không vì sanh mà chiếm làm của riêng của mình , không vì gia ân mà cậy công và khoe khoang , không vì là kẻ bề trên mà áp bức kẻ dưới phải nghe theo mình , ra mặt là người trên trước .Cho nên người được cái Đức Huyền của Đạo thì hành động có khác với người đời :” họ sanh mà không chiếm làm của riêng , họ làm mà không cậy công , họ là bậc trên mà không ra mặt là người chủ tể ... Họ là người Vô Kỉ , Vô Công và Vô danh “.
Người chưa đi đến cái Đức Huyền của Đạo ( Huyền Đức ) không làm như vậy : họ làm và kể công , chứ không làm để mà làm 1 cách không tư tâm , không vị kỉ . Hễ họ có công danh , công dưỡng thì họ lại cố chiếm lấy làm của riêng , sai sử theo ý muốn , lợi dụng đủ mọi phương diện . Nếu họ là bậc trị nước , thì họ thích lên mặt là người trên , ép buộc người dưới phải phục tùng quì lụy ... kẻ nào không nghe lời họ là kẻ bội nghịch đối với họ ..
&&&
Tóm lại , Huyền Đồng là phương tiện mà Huyền Đức là cứu cánh .Huyền Đứclà để xử kỉ , mà Huyền Đồng là để tiếp vật .
Hai chữ Huyền Đồng đây có thể gọi là cứu cánh tuyệt đối của học thuyết Lão Tử . Hễ thực hiện được nó nơi lòng mình rồi 1 cách tự nhiên và vĩnh viễn , đó là người Đắc Đạo vậy . Và cũng chính vì không nhận thấy rõ chỗ cứu cánh này mà người ta mới gán cho cái học của Lão Tử ( cũng như của Trang Tử ) là cái học yếm thế hay xuất thế . Trong khi vấn đề Nhĩ Ngã , Ta và Đời , đối với Lão Trang , không còn là 2 , mà là 1 . Đó là 1 lầm lạc to tát , do sự so sánh thiển cận với những học thuyết xã hội của Nho Mặc .
&&&
Đối với thuyết Huyền Đồng , Lão Tử bác cái thuyết Thần Quyền , và chủ trương thuyết Vạn Vật Nhất Thể , tức là bác tất cả các Thần Tượng bên ngoài bất cứ dưới hình thức nào , nghĩa là bác tất cả mọi sự thờ phụng lễ bái .
&&&
Sao nói rằng không thể thực hiện được sự Huyền Đồng ? Lấy thí dụ người thợ lặn , sở dĩ họ lặn dưới nước như loài thủy tộc là vì họ đã quên... rằng họ là họ khác biệt với nước , mà đã cùng với nước là 1 . Trang Tử ,giải nó trong câu chuyện ngụ ngôn lí thú và sâu sắc sau đây :” Khổng Tử đứng xem thác nước Lữ Lương Thác ấy cao độ 3,4 chục lần bề cao con người . Nước đổ xuống thành 1 dòng sôi bọt , chảy cuồn cuộn trong 1 cái lạch dài hơn 40 dặm . Dòng nước lộn nhào đến đỗi rùa cá cũng không ở đặng .
Bỗng Khổng Tử thấy 1 người vận chuyển trong nước xoáy .Cho là 1 người thất chí muốn tự trầm nên bảo đệ tử đi theo bực thẳm đặng coi có thể nào cứu vớt . Cách ít trăm bước dưới nguồn , người ấy bèn lên khỏi nước , xổ đầu tóc ra phơi , vừa đi vừa ca hát ... Khổng Tử theo kịp hỏi :” Tôi hòng cho Ngài là Thần Thành chi , mà bây giờ rõ Ngài là người . Làm sao mà vận chuyển được trong nước dễ dàng như thế ? Xin cho tôi biết cái Pháp của Ngài ?”
Người đó nói :” Tôi không có pháp gì cả . Ban đầu , tôi khởi sự lặn theo nề nếp , rồi sự lội ấy thành ra tự nhiên cho tôi ; bây giờ tôi linh đinh như loài thủy tộc kia , bởi vì tôi đã đồng làm 1 cùng tánh nước , không còn thấy tôi riêng với nước nữa . Tôi xuống với nước xoáy, tôi lên với nước vận , tôi luân chuyển theo sự luân chuyển của nước chứ không luân chuyển theo ý riêng của tôi nữa ... Tôi ở trong nước như tôi ở trong chỗ tự nhiên của tôi . Nước gánh lấy tôi , vì tôi cùng nó là 1 .( Đạt Sinh )
&&&
Huyền Đồng của Lão Tử tức là Tề Vật của Trang Châu , là Bát Nhã Bình Đẳng của Phật Giáo Đại Thừa .
Người mà thực hiện được Huyền Đồng , thì tất cả quan năng trong con người đều được Thống Nhất ... Như Giáo sư E. Herrigel đã nói trong quyển “ Le Zen dans l’art chevaleresque du tir à l’arc ... “ Sự hoàn thiện trong nghề đánh kiếm là cái tâm của người đánh kiếm phải đừng náo động vì í niệm chia phân nhĩ ngã , đừng còn thấy có Ta có Người , đừng còn thấy có người địch thủ với ngọn kiếm của nó , đừng nghĩ gì đến cây kiếm của mình và cách xử dụng nó nữa , và cũng đừng bận gì đến vấn đề sinh tử ...
Giải thoát được khỏi cái í niệm ham sống sợ chết , tức là cặp mâu thuẫn Sinh và Tử ...Đó là đạt đến cái nghệ thuật cao nhất của phép đánh kiếm rồi vậy .
Người thợ lặn giỏi , là người không còn thấy mình khác với nước nữa ; Người bắn hay là người bắn mà không thấy mình khác với cái đích của mình bắn ; Người thợ vẽ hay , là người thợ vẽ không thấy mình khác với vật mình vẽ ... Ngĩa là không còn để ý đến ngoại vật , đến cái việc làm của mình nữa ! Đó là đã đến mức Huyền Đồng rồi vậy .
&&&&
Huyền Đồng 2.
&&&
Đối với tất cả mọi hiện tướng trên đời đều chứa đựng mâu thuẫn , nhưng những mâu thuẫn đều chỉ là bề mặt bề trái của thực tại . Người đã thực hiện được sự Huyền Đồng nơi bản thân , hỗn hợp được Tâm và Trí , Thần và Vật , thì cũng sẽ Huyền Đồng được với tất cả vạn vật bên ngoài , không còn thấy Ta thấy Người , mà nhận thấy tất cả Nội Ngoại, Chủ Khách đều là 1 cả .
Nhân đó , ta sẽ không còn thấy cái mà ta gọi là Ta riêng tư nữa , nguyên nhân của tất cả sự đau khổ trên đời :” Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả ,vi ngô hữu thân . Cập ngpo6 vo6tha6n , ngô hữu hà hoạn “ . Hữu thân , đây là chỉ về cái Bản Ngã của mình .Con người vì quá lo lắng cho cái Bản Ngã của mình mới gây nên sự “lo lớn “ . Cho nên ta không nghĩ đến mình nữa thì làm gì có lo ?
Như vậy , ta có thể nói rằng người đã đạt đến trạng thái Huyền Đồng , nghĩa là người đã diệt được Bản Ngã , đã đồng hóa với Đạo rồi , thì sẽ giải quyết ngay được các mâu thuẫn to tát nơi tâm hồn , không còn thấy sự đèo bòng tham muốn cái bên ngoài , những dục vọng chiếm đoạt làm của riêng , đề cao mình để phủ nhận kẻ khác , không còn tự ti cũng chẳng tự tôn , đó là người đã nhờ phép Huyền Đồng mà được cái Đức Huyền của Đạo .
Nên mới nói :” Đạo sinh chi , Đức súc chi . Trưởng chi dục chi , đình chi độc chi , dưỡng chi phúc chi . Sinh chi bất hữu , vi nhi bất thị , trưởng nhi bất tể , thị vị Huyền Đức “
( Đạo sinh đó , Đức nuôi đó , cấp dưỡng đó , nuôi nấng đó , đùm bọc đó . Bồi sức đó , đưỡng nuôii đó , chở che đó , Sinh mà không chiếm làm của mình , làm mà không cậy công , làm bậc trên mà không làm chủ ,gọi là Huyền Đức ) .
Đạo và Đức có công sanh và thành vạn vật , nhưng không vì sanh mà chiếm làm của riêng của mình , không vì gia ân mà cậy công và khoe khoang , không vì là kẻ bề trên mà áp bức kẻ dưới phải nghe theo mình , ra mặt là người trên trước .Cho nên người được cái Đức Huyền của Đạo thì hành động có khác với người đời :” họ sanh mà không chiếm làm của riêng , họ làm mà không cậy công , họ là bậc trên mà không ra mặt là người chủ tể ... Họ là người Vô Kỉ , Vô Công và Vô danh “.
Người chưa đi đến cái Đức Huyền của Đạo ( Huyền Đức ) không làm như vậy : họ làm và kể công , chứ không làm để mà làm 1 cách không tư tâm , không vị kỉ . Hễ họ có công danh , công dưỡng thì họ lại cố chiếm lấy làm của riêng , sai sử theo ý muốn , lợi dụng đủ mọi phương diện . Nếu họ là bậc trị nước , thì họ thích lên mặt là người trên , ép buộc người dưới phải phục tùng quì lụy ... kẻ nào không nghe lời họ là kẻ bội nghịch đối với họ ..
&&&
Tóm lại , Huyền Đồng là phương tiện mà Huyền Đức là cứu cánh .Huyền Đứclà để xử kỉ , mà Huyền Đồng là để tiếp vật .
Hai chữ Huyền Đồng đây có thể gọi là cứu cánh tuyệt đối của học thuyết Lão Tử . Hễ thực hiện được nó nơi lòng mình rồi 1 cách tự nhiên và vĩnh viễn , đó là người Đắc Đạo vậy . Và cũng chính vì không nhận thấy rõ chỗ cứu cánh này mà người ta mới gán cho cái học của Lão Tử ( cũng như của Trang Tử ) là cái học yếm thế hay xuất thế . Trong khi vấn đề Nhĩ Ngã , Ta và Đời , đối với Lão Trang , không còn là 2 , mà là 1 . Đó là 1 lầm lạc to tát , do sự so sánh thiển cận với những học thuyết xã hội của Nho Mặc .
&&&
Đối với thuyết Huyền Đồng , Lão Tử bác cái thuyết Thần Quyền , và chủ trương thuyết Vạn Vật Nhất Thể , tức là bác tất cả các Thần Tượng bên ngoài bất cứ dưới hình thức nào , nghĩa là bác tất cả mọi sự thờ phụng lễ bái .
&&&
Sao nói rằng không thể thực hiện được sự Huyền Đồng ? Lấy thí dụ người thợ lặn , sở dĩ họ lặn dưới nước như loài thủy tộc là vì họ đã quên... rằng họ là họ khác biệt với nước , mà đã cùng với nước là 1 . Trang Tử ,giải nó trong câu chuyện ngụ ngôn lí thú và sâu sắc sau đây :” Khổng Tử đứng xem thác nước Lữ Lương Thác ấy cao độ 3,4 chục lần bề cao con người . Nước đổ xuống thành 1 dòng sôi bọt , chảy cuồn cuộn trong 1 cái lạch dài hơn 40 dặm . Dòng nước lộn nhào đến đỗi rùa cá cũng không ở đặng .
Bỗng Khổng Tử thấy 1 người vận chuyển trong nước xoáy .Cho là 1 người thất chí muốn tự trầm nên bảo đệ tử đi theo bực thẳm đặng coi có thể nào cứu vớt . Cách ít trăm bước dưới nguồn , người ấy bèn lên khỏi nước , xổ đầu tóc ra phơi , vừa đi vừa ca hát ... Khổng Tử theo kịp hỏi :” Tôi hòng cho Ngài là Thần Thành chi , mà bây giờ rõ Ngài là người . Làm sao mà vận chuyển được trong nước dễ dàng như thế ? Xin cho tôi biết cái Pháp của Ngài ?”
Người đó nói :” Tôi không có pháp gì cả . Ban đầu , tôi khởi sự lặn theo nề nếp , rồi sự lội ấy thành ra tự nhiên cho tôi ; bây giờ tôi linh đinh như loài thủy tộc kia , bởi vì tôi đã đồng làm 1 cùng tánh nước , không còn thấy tôi riêng với nước nữa . Tôi xuống với nước xoáy, tôi lên với nước vận , tôi luân chuyển theo sự luân chuyển của nước chứ không luân chuyển theo ý riêng của tôi nữa ... Tôi ở trong nước như tôi ở trong chỗ tự nhiên của tôi . Nước gánh lấy tôi , vì tôi cùng nó là 1 .( Đạt Sinh )
&&&
Huyền Đồng của Lão Tử tức là Tề Vật của Trang Châu , là Bát Nhã Bình Đẳng của Phật Giáo Đại Thừa .
Người mà thực hiện được Huyền Đồng , thì tất cả quan năng trong con người đều được Thống Nhất ... Như Giáo sư E. Herrigel đã nói trong quyển “ Le Zen dans l’art chevaleresque du tir à l’arc ... “ Sự hoàn thiện trong nghề đánh kiếm là cái tâm của người đánh kiếm phải đừng náo động vì í niệm chia phân nhĩ ngã , đừng còn thấy có Ta có Người , đừng còn thấy có người địch thủ với ngọn kiếm của nó , đừng nghĩ gì đến cây kiếm của mình và cách xử dụng nó nữa , và cũng đừng bận gì đến vấn đề sinh tử ...
Giải thoát được khỏi cái í niệm ham sống sợ chết , tức là cặp mâu thuẫn Sinh và Tử ...Đó là đạt đến cái nghệ thuật cao nhất của phép đánh kiếm rồi vậy .
Người thợ lặn giỏi , là người không còn thấy mình khác với nước nữa ; Người bắn hay là người bắn mà không thấy mình khác với cái đích của mình bắn ; Người thợ vẽ hay , là người thợ vẽ không thấy mình khác với vật mình vẽ ... Ngĩa là không còn để ý đến ngoại vật , đến cái việc làm của mình nữa ! Đó là đã đến mức Huyền Đồng rồi vậy .
&&&&
Thứ Tư, 20 tháng 2, 2008
vô vi 1
Lão Tử Đạo Đức Kinh – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Vô Vi 1 .
&&&
Vô Vi có thể gọi là danh từ gồm nắm tất cả bộ sách Đạo Đức Kinh . Nó là danh từ tổng yếu bao quát tất cả mọi đề tài đã được giải rõ trong 81 chương sách : không có chương nào là không nói đến nó .
Lão Tử nói :” Ngã hữu tam bửu ...nhất viết từ, nhị viết kiệm , tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên “ .( ta có 3 vật báu ... 1 là từ , 2 là kiệm , 3 là không dám đứng trước thiên hạ . )( chương 67 )
Từ là yêu tất cả mọi người , bất luận đối với người tốt hay kẻ xấu ... Người đời không phải thế : Người đời bảo : dĩ oán báo oán . Nho gia bảo :dĩ trực báo oán .( Luận ngữ ) , đó là đạo hữu vi . Trái lại , Từ là dám xem kẻ thù như người bạn , không lấy oán mà báo oán , cũng không lấy trực mà báo oán , nghĩa là không dám châm thêm vào ngọn lửa oán thù đến nỗi gần như không dám biết đến 2 chữ thù oán là gì .
Thiên hạ thì lấy xa xỉ , khoa trương làm mục đích tiến thủ , tranh nhau đua đòi trong sự xa hoa lộng lẫy càng nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu ... Lão Tử trái lại khuyên ta : “ khứ thậm , khứ xa , khứ thái “ và lấy kiệm ước làm căn bản cho người trị nước . Ông lại còn khuyên ta “tri chỉ , tri túc “ .
Người đời đều lấy sự ăn ngồi trên trước làm vinh , và suốt đời chạy mãi theo cái bả vinh hoa phú quí ...Thì Lão Tử lại bảo ta không nên “ đứng trước thiên hạ “ , cần phải khiêm khu , từ tốn ... và luôn luôn đứng dưới và ngồi sau , biết như con đực hãy làm như con cái .
Từ, Kiệm , và bất cảm vi thiên hạ , đó đều là những hành động Vô Vi trong phương xử thế .
Thế thường , theo đạo Hữu Vi , thì phải lấy Mạnh mà thắng Mạnh , còn Vô Vi thì trái lại lấy Nhu mà thắng Cương , lấy Nhược mà thắng Cường ... và hơn nữa lấy “ cái không tranh mà thắng được 1 cách vẹn toàn “ ( bất tranh nhi thiện thắng ) là khác ! Đó là Vô Vi trong đạo tranh đấu .
Người đời thường bão “ biết người là tri “ , Lão Tử lại bảo “ biết mình là sáng “ . Người đời thường bảo “ thắng người là có sức “ , ông bảo “ thắng mình là sức mạnh “ . Biết người thắng người là Hữu Vi , biết mình và thắng mình đó là Vô Vi .
Người đời tranh nhau để làm cho cái Bản Ngã của mình càng thêm lớn mạnh bằng sự thu đoạt tích trữ của cải quyền thế cho mình càng nhiều càng tốt . Trái lại Lão Tử khuyên ta “ ăn ở giản dị , tự nhiên , ít riêng tư , ít tham dục “ ( kiến tố bảo phác , thiểu tư quả dục ) , nhất định không nên tích trữ cho mình ( thánh nhân bất tích ) và lo riêng cho mình gì cả .
Và hơn nữa , đừng tự xem mình là sáng , đừng tự cho mình là phải , đừng tự cho mình là có công , đừng tự cho mình là trên hết ...1 cách thành thật tự nhiên . Đó đều là những hành động Vô Vi trong phương xử kỉ : tiêu diệt cái Bản Ngã của mình . Hữu Vi , trái lại giúp ta càng tăng gia cái Bản Ngã của mình .
&&&
Tất cả các quan niệm trên đây đều do cái thuyết phản và phục của Lão Tử mà ra cả :” Phản giả Đạo chi động “ . Thuyết Vô Vi cũng do đó mà ra . Hữu Vi là đi ra , là đi tới , còn Vô Vi là trở về , là thối lại .
Vô Vi ,không phải là không làm gì cả , mà đừng làm cái gì đến Thái quá , vì “ vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản “ .Cái gì mà thái quá cũng đều nguy hại cả . Mục đích của bất cứ 1 hành vi nào là cũng để đi đến 1 kết quả nào . Nhưng nếu lại đi vào chỗ thái quá , thì kết quả có khi lại còn nguy hiểm cho ta hơn là không làm gì cả . Cho nên Vô Vi , cũng có nghĩa là bớt đi những gì thái quá :”khứ thậm , khứ xa , khứ thái “.
Theo Lão Tử thì phải để cho con người trở về với cái sống tự nhiên giản dị của họ ... Cho nên Vô Vi là đừng dụng tư tâm mà xen vào cái sống tự nhiên của mọi vật , càng ít can thiệp đến việc người được bao nhiêu càng quí bấy nhiêu .
&&&
Căn cứ vào những nguyên tắc trên đây , Lão Tử bàn qua thuyết “Vô Vi nhi trị “ của ông về chính trị .
Đồng với Khổng Tử , Lão Tử cũng nhận rắng cấn phải có 1 bậc Thánh Quân cấm đầu trị nước , thì thiên hạ mới hạnh phúc . Nhưng khác với Khổng Tử , bao giờ cũng cho rằng cần phải làm nhiều cho dân ... Lão Tử tin rằng càng ít làm chừng nào càng tốt , và không làm gì cả , nếu có thể được , lại càng hay . Là vì theo ông , càng dùng cái trị để mà trị nước thì dễ loạn , càng không dùng đến cái trị để mà trị nước thì nước càng dễ trị .
Chương 57 sách lão Tử Đạo Đức Kinh có câu : “Dĩ chính trị quốc , dĩ kì dụng binh . dĩ vô sự thủ thiên hạ ... Thiên hạ đa kị húy , nhi dân di bần ; dân đa lợi khí , quốc gia tư hôn . Nhân đa kĩ xảo , kì vật tư khởi . Pháp lệnh tư chương , đạo tặc đa hữu .
( Nghĩa là cần phải lấy sự ngay thẳng thực thà mà trị nước . Trái lại nếu trị nước mà làm như dụng binh ,dùng trá ngụy mà trị thì nguy , vì lấy trí mà trị nước , là cái vạ cho nước ) ( dĩ trí trị quốc , quốc chi tặc ).
Huống chi bậc trị nước mà ban hành nhiều điều cấm kị thì dân chúng càng nghèo khổ , bởi thiếu tự do hành động và ngôn ngữ ...Dân chúng mà đa mưu xảo kế để trục lợi thì nước nhà phải sa vào hỗn loạn tăm tối .Người dân cần thực thà , ít dục vọng , thì nước mới dễ trị . Bậc trị nước mà quá khắt khe , đem pháp lệnh bủa giăng trên đầu dân để đề phòng chúng , thì chúng dân cũng tìm đủ mánh khóe thủ đoạn để trốn tránh ; gây ra mưu mô gian trá càng ngày càng thêm ; dân càng khó trị thì bọn đạo tặc càng nhiều . Cổ ngữ có câu :” pháp lập tệ sinh “ .
Dùng Vô Vi mà trị thì ít can thiệp đến việc người , không dùng tư tâm mà mà hành động , dùng “ bất ngôn chi giáo “ mà dậy dân , lấy gương mẫu của mình mà sửa dân ... thì dân không hay là mình có làm gì , nhưng rồi chúng tự sửa đổi lấy mình mà không cần đến sự bắt buộc hay cấm đoán , ban hành pháp lệnh .( Ngã vô vi nhi dân tự hóa )
Vô Vi , về đạo trị nước , cũng có nghĩa là :” phi dĩ minh dân , tương dĩ ngu chi ” , nghĩa là “ không làm cho dân khôn lanh , mà làm cho dân trở nên thực thà “ . Chữ Ngu ở đây không phải có nghĩa là ngu si , mà là thực thà ... tức là cái Ngu của những bậc Thánh Trí :” Minh đạo nhược muội “.
&&&&&&
Vô Vi 1 .
&&&
Vô Vi có thể gọi là danh từ gồm nắm tất cả bộ sách Đạo Đức Kinh . Nó là danh từ tổng yếu bao quát tất cả mọi đề tài đã được giải rõ trong 81 chương sách : không có chương nào là không nói đến nó .
Lão Tử nói :” Ngã hữu tam bửu ...nhất viết từ, nhị viết kiệm , tam viết bất cảm vi thiên hạ tiên “ .( ta có 3 vật báu ... 1 là từ , 2 là kiệm , 3 là không dám đứng trước thiên hạ . )( chương 67 )
Từ là yêu tất cả mọi người , bất luận đối với người tốt hay kẻ xấu ... Người đời không phải thế : Người đời bảo : dĩ oán báo oán . Nho gia bảo :dĩ trực báo oán .( Luận ngữ ) , đó là đạo hữu vi . Trái lại , Từ là dám xem kẻ thù như người bạn , không lấy oán mà báo oán , cũng không lấy trực mà báo oán , nghĩa là không dám châm thêm vào ngọn lửa oán thù đến nỗi gần như không dám biết đến 2 chữ thù oán là gì .
Thiên hạ thì lấy xa xỉ , khoa trương làm mục đích tiến thủ , tranh nhau đua đòi trong sự xa hoa lộng lẫy càng nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu ... Lão Tử trái lại khuyên ta : “ khứ thậm , khứ xa , khứ thái “ và lấy kiệm ước làm căn bản cho người trị nước . Ông lại còn khuyên ta “tri chỉ , tri túc “ .
Người đời đều lấy sự ăn ngồi trên trước làm vinh , và suốt đời chạy mãi theo cái bả vinh hoa phú quí ...Thì Lão Tử lại bảo ta không nên “ đứng trước thiên hạ “ , cần phải khiêm khu , từ tốn ... và luôn luôn đứng dưới và ngồi sau , biết như con đực hãy làm như con cái .
Từ, Kiệm , và bất cảm vi thiên hạ , đó đều là những hành động Vô Vi trong phương xử thế .
Thế thường , theo đạo Hữu Vi , thì phải lấy Mạnh mà thắng Mạnh , còn Vô Vi thì trái lại lấy Nhu mà thắng Cương , lấy Nhược mà thắng Cường ... và hơn nữa lấy “ cái không tranh mà thắng được 1 cách vẹn toàn “ ( bất tranh nhi thiện thắng ) là khác ! Đó là Vô Vi trong đạo tranh đấu .
Người đời thường bão “ biết người là tri “ , Lão Tử lại bảo “ biết mình là sáng “ . Người đời thường bảo “ thắng người là có sức “ , ông bảo “ thắng mình là sức mạnh “ . Biết người thắng người là Hữu Vi , biết mình và thắng mình đó là Vô Vi .
Người đời tranh nhau để làm cho cái Bản Ngã của mình càng thêm lớn mạnh bằng sự thu đoạt tích trữ của cải quyền thế cho mình càng nhiều càng tốt . Trái lại Lão Tử khuyên ta “ ăn ở giản dị , tự nhiên , ít riêng tư , ít tham dục “ ( kiến tố bảo phác , thiểu tư quả dục ) , nhất định không nên tích trữ cho mình ( thánh nhân bất tích ) và lo riêng cho mình gì cả .
Và hơn nữa , đừng tự xem mình là sáng , đừng tự cho mình là phải , đừng tự cho mình là có công , đừng tự cho mình là trên hết ...1 cách thành thật tự nhiên . Đó đều là những hành động Vô Vi trong phương xử kỉ : tiêu diệt cái Bản Ngã của mình . Hữu Vi , trái lại giúp ta càng tăng gia cái Bản Ngã của mình .
&&&
Tất cả các quan niệm trên đây đều do cái thuyết phản và phục của Lão Tử mà ra cả :” Phản giả Đạo chi động “ . Thuyết Vô Vi cũng do đó mà ra . Hữu Vi là đi ra , là đi tới , còn Vô Vi là trở về , là thối lại .
Vô Vi ,không phải là không làm gì cả , mà đừng làm cái gì đến Thái quá , vì “ vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản “ .Cái gì mà thái quá cũng đều nguy hại cả . Mục đích của bất cứ 1 hành vi nào là cũng để đi đến 1 kết quả nào . Nhưng nếu lại đi vào chỗ thái quá , thì kết quả có khi lại còn nguy hiểm cho ta hơn là không làm gì cả . Cho nên Vô Vi , cũng có nghĩa là bớt đi những gì thái quá :”khứ thậm , khứ xa , khứ thái “.
Theo Lão Tử thì phải để cho con người trở về với cái sống tự nhiên giản dị của họ ... Cho nên Vô Vi là đừng dụng tư tâm mà xen vào cái sống tự nhiên của mọi vật , càng ít can thiệp đến việc người được bao nhiêu càng quí bấy nhiêu .
&&&
Căn cứ vào những nguyên tắc trên đây , Lão Tử bàn qua thuyết “Vô Vi nhi trị “ của ông về chính trị .
Đồng với Khổng Tử , Lão Tử cũng nhận rắng cấn phải có 1 bậc Thánh Quân cấm đầu trị nước , thì thiên hạ mới hạnh phúc . Nhưng khác với Khổng Tử , bao giờ cũng cho rằng cần phải làm nhiều cho dân ... Lão Tử tin rằng càng ít làm chừng nào càng tốt , và không làm gì cả , nếu có thể được , lại càng hay . Là vì theo ông , càng dùng cái trị để mà trị nước thì dễ loạn , càng không dùng đến cái trị để mà trị nước thì nước càng dễ trị .
Chương 57 sách lão Tử Đạo Đức Kinh có câu : “Dĩ chính trị quốc , dĩ kì dụng binh . dĩ vô sự thủ thiên hạ ... Thiên hạ đa kị húy , nhi dân di bần ; dân đa lợi khí , quốc gia tư hôn . Nhân đa kĩ xảo , kì vật tư khởi . Pháp lệnh tư chương , đạo tặc đa hữu .
( Nghĩa là cần phải lấy sự ngay thẳng thực thà mà trị nước . Trái lại nếu trị nước mà làm như dụng binh ,dùng trá ngụy mà trị thì nguy , vì lấy trí mà trị nước , là cái vạ cho nước ) ( dĩ trí trị quốc , quốc chi tặc ).
Huống chi bậc trị nước mà ban hành nhiều điều cấm kị thì dân chúng càng nghèo khổ , bởi thiếu tự do hành động và ngôn ngữ ...Dân chúng mà đa mưu xảo kế để trục lợi thì nước nhà phải sa vào hỗn loạn tăm tối .Người dân cần thực thà , ít dục vọng , thì nước mới dễ trị . Bậc trị nước mà quá khắt khe , đem pháp lệnh bủa giăng trên đầu dân để đề phòng chúng , thì chúng dân cũng tìm đủ mánh khóe thủ đoạn để trốn tránh ; gây ra mưu mô gian trá càng ngày càng thêm ; dân càng khó trị thì bọn đạo tặc càng nhiều . Cổ ngữ có câu :” pháp lập tệ sinh “ .
Dùng Vô Vi mà trị thì ít can thiệp đến việc người , không dùng tư tâm mà mà hành động , dùng “ bất ngôn chi giáo “ mà dậy dân , lấy gương mẫu của mình mà sửa dân ... thì dân không hay là mình có làm gì , nhưng rồi chúng tự sửa đổi lấy mình mà không cần đến sự bắt buộc hay cấm đoán , ban hành pháp lệnh .( Ngã vô vi nhi dân tự hóa )
Vô Vi , về đạo trị nước , cũng có nghĩa là :” phi dĩ minh dân , tương dĩ ngu chi ” , nghĩa là “ không làm cho dân khôn lanh , mà làm cho dân trở nên thực thà “ . Chữ Ngu ở đây không phải có nghĩa là ngu si , mà là thực thà ... tức là cái Ngu của những bậc Thánh Trí :” Minh đạo nhược muội “.
&&&&&&
vô vi 2
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Vô Vi 2.
&&&
Tóm lại,Vô Vi là hành động trở về nguồn cội , từ bỏ tất cả những gì phiền phức đa đoan của văn minh giả tạo ...đã làm che lấp chân Tánh , cái Đạo nơi lòng . Vi Đạo nhật tổn ,tổn chi hựu tổn , dĩ chí ư Vô Vi .Theo Đạo thì càng ngày càng bớt , bớt rồi lại bớt nữa , bớt cho đến Vô Vi .
Vô Vi , không phải là không làm gì cả , mà thực sự :” Vi Vô nhi vô bất vi “ nghĩa là không làm mà không có gì là không làm ., làm 1 cách hết sức tự nhiên và kín đáo . ( thiện hành vô triệt tích ),đem cái tự nhiên mà giúp 1 cách tự nhiên , không tư tâm ,không vị kỉ .Người thi ân không biết là thi ân , người thọ ân cũng không dè là thọ ân . Bậc trị nước mà dùng đến cái đạo Vô Vi , dân không hay là mình bị trị ... dĩ nhiên được thiên hạ , mà tự mình cũng không bao giờ bị hại .
Công Dụng Của Hư Vô :
Người Tây Phương cũng như người Đông Phương nhị nguyên học , phần đông xem học thuyết Lão Tử như 1 thứ thủ cựu yếm thế , bi quan tiêu cực , không thích ứng với cuộc đời . Là vì họ không hiểu rõ cái công dụng của Hư Vô trong tất cả mọi hiện hữu trên đời . Trang Tử , ở Thiên Tiêu Diêu Du gọi đó là “ Vô dụng chi dụng “.
Bàn về công dụng của Hư Vô , Lão Tử viết :”
Ba chục căm ,hợp lại 1 bầu ,
Nhờ chỗ không mới có được cái dùng của xe ,
Nhồi đất để làm chén bát ,
Nhờ chỗ không mới có được cái dùng của chén bát ,
Khoét cửa nẻo làm buồng the ,
Nhờ chỗ không mới có cái dụng của buồng the .
Văn hào Romain Rolland nhân bàn về câu nói trên , có viết :” Khi đọc đến câu tư tưởng trên đây của Lão Tử , tôi nghĩ ngay đến những giả thuyết mới đây của khoa Thiên văn học , cho rằng những trung tâm chuyển động của bao nhiêu Vũ Trụ , chính ở những lỗ hổng thăm thẳm của cái Đại Không Vũ Trụ ...
Thật vậy , những lỗ hổng trên không trung là những nơi thu hút mạnh không khí chung quanh . Cho nên thực hiện được cái “Tâm Hư “ là tạo được cho mình 1 trung tâm động lực phi thường . Lão Tử bảo :” Thượng Đức nhược cốc “( Đức mà cận Đạo giống như cái hang sâu ) . Ông lại nói :” Đạo xung chi dụng nhi hoặc bất doanh . Uyên hề tự vạn vật chi tông “
(Đạo thì trống không nhưng đổ vô mãi mà không bao giờ đầy . Đạo giống như vực thẳm ,dường như là tổ tông của vạn vật ) . Cho nên , nếu đến chỗ cùng cực của hư không ( trí hư cực ) là giữ được sự chí tịnh ( thủ tịnh đốc ) thì vạn vật nhân đó mà sinh ra ( vạn vật tịnh tác ) Tức là chỗ Kinh Dịch bảo :” Âm cực Dương sinh , tịnh cực động sinh “.
Như 1 nhà khoa học ngày nay , Lão Tử đã miêu tả rất rõ ràng cái công dụng của Hư Không :” Thiên địa chi gian kì du thác nhược hồ ! Hư nhi bất khuất , động nhi dũ xuất !
Cái khoảng Không Không trong Trời Đất giống như lòng ống bễ của thợ rèn , càng động càng hơi ra mạnh . Cái Tâm Không đó ông gọi là Cốc Thần . Cốc , là ám chỉ hình thể của Hư Không , gọi là Thần , là nói về cái diệu dụng của nó . “Cốc thần bất tử , thị vị huyền tẫn . Huyền tẫn chi môn , thị vị thiên địa căn . Miên miên nhược tồn , dụng chi bất cần “ .
Cái Tâm Không đó sở dĩ có cái tên Huyền Tẫn nghĩa là Mẹ nhiệm màu , vì nó thuộc Âm , tịnh , mà chính cái tịnh ấy mới thật là gốc của động , gốc phát sinh ra vạn hữu .
Thử lấy thêm 1 thí dụ rất thông thường này là trò chơi diều giấy để chứng minh câu “ tịnh vi táo quân “ ( tịnh là chủ của động ) của Lão Tử . Cái gì làm cho diều lên cao ? Phải chăng nhờ nơi sợi dây buộc chặt nó ở dưới đất , nơi cánh tay của đứa trẻ hoặc nơi 1 cái cọc đóng chắc : “ Trong vi khinh căn “ ( nặng là gốc của nhẹ ) .Tàu bay trên không trung nhờ đâu mà bay được , nếu chẳng phải nhờ sức chống lại của không khí .
Không có sức trì lại của sợi dây , thì diều không sao đứng vững trên không trung và bay cao , mà còn rớt xuống như trường hợp diều đứt dây .
Tóm lại , triết học của Lão Tử sở dĩ chủ trương tiêu cực , bất động , hư vô ...là muốn nắm ngay cái căn bản của mọi hoạt động trong vũ trụ vạn vật , coi nặng cái gốc mà xem khinh cái ngọn .
Rõ được cái công dụng của Hư Không , ta sẽ không còn lạ gì khi nghe ông chủ trương tiêu cực , ở thì thích chỗ thấp ( cư thiện địa ) .Lòng thì thích hư không vắng lặng ( tâm thiện uyên ) . Đó là chỗ người ta phần đông cho là ngu , nhưng ông lại cho là ngoan , và luôn luôn khuyên ta nên làm cái hang sâu cho thiên hạ . Ông nói :” Chúng nhân giai hữu dư , nhi ngã độc nhược di . Ngã ngu nhân chi tâm dã tai !” ( người đời có dư , riêng ta thiếu thốn . Lòng ta ngu dốt vậy thay ! )
Một nhà Đạo học Đông Phương hiện nay có nói :” hãy không là gì cả , thì đời ta sẽ trở nên vô cùng đơn giản và đẹp đẽ “. Hãy không là gì cả , tức là chỗ mà Lão Tử gọi “ vi thiên hạ khê , vi thiên hạ cốc “.
Áp dụng bất cứ trong ngành hoạt động nào ... công dụng của Hư Không bao giờ cũng có hiệu quả kì diệu .
Phần nhiều thi văn Đông Phương phái siêu thoát thường dùng Hư Vô để biểu tượng cho lẽ Đạo . Đạo là Hư Vô , nghĩa là vô cùng , vô tận . Sống theo Đạo là làm mất cái Tiểu Ngã để nhập vào Đại Ngã hay Vô Ngã ( hư kì tâm ) tức là vào cõi vô cùng . Khi con người đã chán chường với những ảo ảnh bên ngoài , liền trở về với nội tâm , nhưng rồi cũng để đi tìm bắt cái ảo ảnh của trò đuổi bóng , cái bóng hình của Tiểu Ngã mà mình đã tưởng mất rồi ! Theo Đạo học Đông Phương , cái gọi là Ta , chỉ là 1 ảo ảnh thôi .
Lí Bạch “ đuổi bắt bóng mình “trong li rượu :
Cất chén mời trăng sáng ,
Đối ảnh thành 3 người ,
Ta hát , trăng bồi hồi ,
Ta múa bóng nhẩy loạn .
Cử bôi yêu minh nguyệt ,
Đối ảnh thành tam nhân ,
Ngã ca , nguyệt bồi hồi ,
Ngã vũ , ảnh linh loạn .
Tản Đà , nhà thi sĩ siêu việt nước Việt Nam , cũng ngồi nói chuyện với bóng mình :
Mình với ta tuy 2 mà một
Ta với mình tuy 1 mà 2 .
Và rồi ông cũng giả vờ say , cái say siêu thoát cảnh giới nhị nguyên của Đạo gia , để rồi nhận thấy chỗ “ vạn cảnh giai không “ của vũ trụ , đời là giấc mộng .
Gẫm nghìn xưa , ai tài hoa , ai tiết liệt , ai đài trang
Cùng 1 giác mơ màng trong vũ trụ
Đời người như giác chiêm bao
Mà trong mộng sự tại sao không nhàn ?
Trăm năm 1 giác mơ màng
Nghĩ chi cho bận gan vàng hỡi ai ?
Giấc mộng 10 năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đủ lắm rồi không bằng mộng ...
&&&&&&
Ghi Nhận thêm :
Khổng Tử nói : 50 tuổi mới học Dịch được .
Nhưng cũng chưa chắc đã học được , vì người ta vẫn mang tâm Nhị Nguyên .
thật là tiếc nên vẫn không hiểu Lão Tử , huống chi lại nói về Dịch , môn học cao siêu hơn Đạo Đức Kinh .
Thế nên môn triết Đông , vẫn kính chi viễn nhi ...
Tham sân si , ta bỏ thì mới mong hiểu Dịch ,
mà bỏ tham sân si thì tuổi phải ngoài 50 ...
Vô Vi 2.
&&&
Tóm lại,Vô Vi là hành động trở về nguồn cội , từ bỏ tất cả những gì phiền phức đa đoan của văn minh giả tạo ...đã làm che lấp chân Tánh , cái Đạo nơi lòng . Vi Đạo nhật tổn ,tổn chi hựu tổn , dĩ chí ư Vô Vi .Theo Đạo thì càng ngày càng bớt , bớt rồi lại bớt nữa , bớt cho đến Vô Vi .
Vô Vi , không phải là không làm gì cả , mà thực sự :” Vi Vô nhi vô bất vi “ nghĩa là không làm mà không có gì là không làm ., làm 1 cách hết sức tự nhiên và kín đáo . ( thiện hành vô triệt tích ),đem cái tự nhiên mà giúp 1 cách tự nhiên , không tư tâm ,không vị kỉ .Người thi ân không biết là thi ân , người thọ ân cũng không dè là thọ ân . Bậc trị nước mà dùng đến cái đạo Vô Vi , dân không hay là mình bị trị ... dĩ nhiên được thiên hạ , mà tự mình cũng không bao giờ bị hại .
Công Dụng Của Hư Vô :
Người Tây Phương cũng như người Đông Phương nhị nguyên học , phần đông xem học thuyết Lão Tử như 1 thứ thủ cựu yếm thế , bi quan tiêu cực , không thích ứng với cuộc đời . Là vì họ không hiểu rõ cái công dụng của Hư Vô trong tất cả mọi hiện hữu trên đời . Trang Tử , ở Thiên Tiêu Diêu Du gọi đó là “ Vô dụng chi dụng “.
Bàn về công dụng của Hư Vô , Lão Tử viết :”
Ba chục căm ,hợp lại 1 bầu ,
Nhờ chỗ không mới có được cái dùng của xe ,
Nhồi đất để làm chén bát ,
Nhờ chỗ không mới có được cái dùng của chén bát ,
Khoét cửa nẻo làm buồng the ,
Nhờ chỗ không mới có cái dụng của buồng the .
Văn hào Romain Rolland nhân bàn về câu nói trên , có viết :” Khi đọc đến câu tư tưởng trên đây của Lão Tử , tôi nghĩ ngay đến những giả thuyết mới đây của khoa Thiên văn học , cho rằng những trung tâm chuyển động của bao nhiêu Vũ Trụ , chính ở những lỗ hổng thăm thẳm của cái Đại Không Vũ Trụ ...
Thật vậy , những lỗ hổng trên không trung là những nơi thu hút mạnh không khí chung quanh . Cho nên thực hiện được cái “Tâm Hư “ là tạo được cho mình 1 trung tâm động lực phi thường . Lão Tử bảo :” Thượng Đức nhược cốc “( Đức mà cận Đạo giống như cái hang sâu ) . Ông lại nói :” Đạo xung chi dụng nhi hoặc bất doanh . Uyên hề tự vạn vật chi tông “
(Đạo thì trống không nhưng đổ vô mãi mà không bao giờ đầy . Đạo giống như vực thẳm ,dường như là tổ tông của vạn vật ) . Cho nên , nếu đến chỗ cùng cực của hư không ( trí hư cực ) là giữ được sự chí tịnh ( thủ tịnh đốc ) thì vạn vật nhân đó mà sinh ra ( vạn vật tịnh tác ) Tức là chỗ Kinh Dịch bảo :” Âm cực Dương sinh , tịnh cực động sinh “.
Như 1 nhà khoa học ngày nay , Lão Tử đã miêu tả rất rõ ràng cái công dụng của Hư Không :” Thiên địa chi gian kì du thác nhược hồ ! Hư nhi bất khuất , động nhi dũ xuất !
Cái khoảng Không Không trong Trời Đất giống như lòng ống bễ của thợ rèn , càng động càng hơi ra mạnh . Cái Tâm Không đó ông gọi là Cốc Thần . Cốc , là ám chỉ hình thể của Hư Không , gọi là Thần , là nói về cái diệu dụng của nó . “Cốc thần bất tử , thị vị huyền tẫn . Huyền tẫn chi môn , thị vị thiên địa căn . Miên miên nhược tồn , dụng chi bất cần “ .
Cái Tâm Không đó sở dĩ có cái tên Huyền Tẫn nghĩa là Mẹ nhiệm màu , vì nó thuộc Âm , tịnh , mà chính cái tịnh ấy mới thật là gốc của động , gốc phát sinh ra vạn hữu .
Thử lấy thêm 1 thí dụ rất thông thường này là trò chơi diều giấy để chứng minh câu “ tịnh vi táo quân “ ( tịnh là chủ của động ) của Lão Tử . Cái gì làm cho diều lên cao ? Phải chăng nhờ nơi sợi dây buộc chặt nó ở dưới đất , nơi cánh tay của đứa trẻ hoặc nơi 1 cái cọc đóng chắc : “ Trong vi khinh căn “ ( nặng là gốc của nhẹ ) .Tàu bay trên không trung nhờ đâu mà bay được , nếu chẳng phải nhờ sức chống lại của không khí .
Không có sức trì lại của sợi dây , thì diều không sao đứng vững trên không trung và bay cao , mà còn rớt xuống như trường hợp diều đứt dây .
Tóm lại , triết học của Lão Tử sở dĩ chủ trương tiêu cực , bất động , hư vô ...là muốn nắm ngay cái căn bản của mọi hoạt động trong vũ trụ vạn vật , coi nặng cái gốc mà xem khinh cái ngọn .
Rõ được cái công dụng của Hư Không , ta sẽ không còn lạ gì khi nghe ông chủ trương tiêu cực , ở thì thích chỗ thấp ( cư thiện địa ) .Lòng thì thích hư không vắng lặng ( tâm thiện uyên ) . Đó là chỗ người ta phần đông cho là ngu , nhưng ông lại cho là ngoan , và luôn luôn khuyên ta nên làm cái hang sâu cho thiên hạ . Ông nói :” Chúng nhân giai hữu dư , nhi ngã độc nhược di . Ngã ngu nhân chi tâm dã tai !” ( người đời có dư , riêng ta thiếu thốn . Lòng ta ngu dốt vậy thay ! )
Một nhà Đạo học Đông Phương hiện nay có nói :” hãy không là gì cả , thì đời ta sẽ trở nên vô cùng đơn giản và đẹp đẽ “. Hãy không là gì cả , tức là chỗ mà Lão Tử gọi “ vi thiên hạ khê , vi thiên hạ cốc “.
Áp dụng bất cứ trong ngành hoạt động nào ... công dụng của Hư Không bao giờ cũng có hiệu quả kì diệu .
Phần nhiều thi văn Đông Phương phái siêu thoát thường dùng Hư Vô để biểu tượng cho lẽ Đạo . Đạo là Hư Vô , nghĩa là vô cùng , vô tận . Sống theo Đạo là làm mất cái Tiểu Ngã để nhập vào Đại Ngã hay Vô Ngã ( hư kì tâm ) tức là vào cõi vô cùng . Khi con người đã chán chường với những ảo ảnh bên ngoài , liền trở về với nội tâm , nhưng rồi cũng để đi tìm bắt cái ảo ảnh của trò đuổi bóng , cái bóng hình của Tiểu Ngã mà mình đã tưởng mất rồi ! Theo Đạo học Đông Phương , cái gọi là Ta , chỉ là 1 ảo ảnh thôi .
Lí Bạch “ đuổi bắt bóng mình “trong li rượu :
Cất chén mời trăng sáng ,
Đối ảnh thành 3 người ,
Ta hát , trăng bồi hồi ,
Ta múa bóng nhẩy loạn .
Cử bôi yêu minh nguyệt ,
Đối ảnh thành tam nhân ,
Ngã ca , nguyệt bồi hồi ,
Ngã vũ , ảnh linh loạn .
Tản Đà , nhà thi sĩ siêu việt nước Việt Nam , cũng ngồi nói chuyện với bóng mình :
Mình với ta tuy 2 mà một
Ta với mình tuy 1 mà 2 .
Và rồi ông cũng giả vờ say , cái say siêu thoát cảnh giới nhị nguyên của Đạo gia , để rồi nhận thấy chỗ “ vạn cảnh giai không “ của vũ trụ , đời là giấc mộng .
Gẫm nghìn xưa , ai tài hoa , ai tiết liệt , ai đài trang
Cùng 1 giác mơ màng trong vũ trụ
Đời người như giác chiêm bao
Mà trong mộng sự tại sao không nhàn ?
Trăm năm 1 giác mơ màng
Nghĩ chi cho bận gan vàng hỡi ai ?
Giấc mộng 10 năm đã tỉnh rồi
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi
Nghĩ đủ lắm rồi không bằng mộng ...
&&&&&&
Ghi Nhận thêm :
Khổng Tử nói : 50 tuổi mới học Dịch được .
Nhưng cũng chưa chắc đã học được , vì người ta vẫn mang tâm Nhị Nguyên .
thật là tiếc nên vẫn không hiểu Lão Tử , huống chi lại nói về Dịch , môn học cao siêu hơn Đạo Đức Kinh .
Thế nên môn triết Đông , vẫn kính chi viễn nhi ...
Tham sân si , ta bỏ thì mới mong hiểu Dịch ,
mà bỏ tham sân si thì tuổi phải ngoài 50 ...
Thứ Hai, 18 tháng 2, 2008
vô vi 3
Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Vô Vi 3.
Thi phú mà vượt lên thật cao , cũng vượt lên cả Mộng và Thực , mà vào cõi Hư Không , nghỉa là không còn Mộng không còn Thực chi nữa , cũng không còn Trang Châu , cũng không còn Hồ Điệp .
Trang Châu mơ thấy mình hóa bướm , Châu lấy làm thích thú , không nhớ mình là Châu nữa . Chợt khi tỉnh giấc , thấy mình là Châu , cũng không nhớ mình là bướm ... Bướm và Châu , Châu và Bướm , ai thực , ai hư ? Cái ta của Châu , không rõ thực tế ở đâu ? Tâm quên ( hư ) thì cảnh cũng hư .mất cả 2 , mới là Đạo . Đó là đạt đến cái “ Tâm Huyền Đồng “ nên gọi là Tâm Hư .
Thật đúng với câu thi thần của Cao Bá Quát “đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt “
Một vị chân tu , ban đầu tu thì còn thấy Phật trước mắt , nhưng tu mãi ... thì mất Phật , vì Phật đã trốn mất về Tây Phương .
Tâm có hư mới có thể giàu vô lượng , cho mãi mà không hết : “Càng cho , càng thêm nhiều “ ( Thánh nhân bất tích , kí dĩ vi nhân kỉ dũ hữu , kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa ) .
Và bởi có cái tâm hư nên người theo phong thái Lão Trang luôn luôn có cái phong thái tự do phóng khoáng , không bị hạn chế trong bất cứ khuôn khổ nào của nhân vi .
Đời sống là 1 cuộc “hằng chuyển nhi bộc lưu “ , 1 cái gì đã qua là qua hẳn , không thể còn lo mà sửa đổi lại được ! Dòng đời cuồn cuộn như nước chẩy :” thệ già như tư phù , bất xả trú dạ “ ! Từng lúc từng mới , và mỗi cái niệm . Là 1 cái đã qua .
Có người hỏi Tào Sơn Hòa Thượng : thế nào là đạo ? Ngài trả lời :”Trả lời quả không khó . Nhưng điều thiết yếu là người phải bắt kịp câu ta nói ngay khi vừa thoát khỏi cửa miệng kìa ! Được vậy là người đã gần Đạo . Bằng không , sau đó người sẽ suy luận hoang mang rồi lại đổ lỗi về cho ta . Vậy , thà ta im lặng còn hơn , để tránh cho nhau những điều lầm lẫn “.
Về phương diện nghệ thuật nói chung .công dụng của Hư Không cũng được áp dụng bằng phép khêu gợi ... Dùng lời nói hữu hạn , không làm sao miêu tả được cái vô hạn như Chân Lý , cho nên công dụng của cái Không trong nghệ thuật Đông Phương là nghệ thuật biểu diễn cái Không Lời !(Ngôn vô ngôn ) . (Nói mà không có nói ) như Phật tổ Như Lai , sau khoảng 49 năm thuyết pháp đã long trọng tuyên bố : “ chưa từng nói 1 lời nào “.
Trong văn nghệ phẩm thượng thừa của Đông Phương , vì vậy , phần nói lên được , không phải là phần chính . Phần chính lại là phần không nói được nên lời , bất cứ trong câu văn hay bức họa .
Những bức tranh không lời , rất dồi dào ý nghĩa hơn những bức họa có lời ...Những bản nhạc không lời thâm trầm hơn những bản đàn có lời , bị hạn chế trong 1 ý niệm của thi nhân . Người ta bảo :” Kẻ nào chưa biết tự hạn chế , không bao giờ biết viết văn “. Đúng ! Nhưng tôi muốn nói thêm : kẻ nào chưa biết phải giữ im lặng những chỗ cần im lặng , cũng chưa có thể viết được văn hay . Không có gì làm chán người ta bằng kể lể dài dòng và nói đến : “cạn tàu ráo máng “ .
Lão Tử nói rất đúng :” Người ôm ấp được Đạo cả , không bao giờ muốn đầy “ ( Bảo thủ Đạo , bất dục doanh ) Là tại sao ? Là vì ” cái gì sâu thì lại đầy “ (oa tắc doanh ) , mà đầy thì đổ không chưa được gì cả . Bởi vậy văn chương nghệ thuật Đông Phương thuộc về Đạo học đều chăm chú vào những cái gì “ bất toàn “ những cái gì “cong queo “ nói vòng quanh hay giả vờ , những cái gì thiếu thốn .
Khúc tắc toàn
Uổng tắc trực
Oa tắc doanh
Tệ tắc tân
Thiểu tắc đắc
Đa tắc hoặc.
Phàm cái gì thiếu cũng hay hơn đủ , lại càng hay hơn cái thừa . Trong văn chương nghệ thuật , hễ bớt lời là thêm mạnh cho ý ...Ý mà rườm rà sẽ làm giảm bớt sức khêu gợi và lòng hứng thú :” tổn nhi chi ích , ích chi nhi tổn “ ( bớt là thêm , thêm là bớt ) . Không nói , nhưng nếu cần phải nói , thì chỉ nên nói nửa lời thôi .
Nhà văn Nhật Bản Okarura Kakuzo cũng nhận xét rằng :” Hư vô là toàn năng , vì nó có sức chịu đựng hết thẩy vạn vật .Chỉ có trong chỗ hư không mới có thể phát sinh những sự chuyển động . Kẻ nào tự làm cho mình biến thành 1 cái hư không để cho kẻ khác có thể đi vào , kẻ ấy có thể làm chủ được mọi tình thế ... ngay trong lí thuyết của mọi lí thuyết về môn kiếm thuật hay môn đấu vật đều căn cứ vào sự áp dụng của hư không .
Sở dĩ thuật tự vệ của Nhật Bản mà ta thường gọi là Nhu Thuật hoặc Nhu Đạo là do câu “ Nhu thắng cương , nhược thắng cường “ của Lão Tử . Trong Nhu Đạo , cái mà người ta gọi là dùng phương pháp đề kháng bất bạo động , chính là phép tạo ra 1 cái thế Hư Không để dụ địch cho kiệt lực ( vì họ quá dùng đến cái đạo hữu vi hay ngạnh công ) . trong khi đó mình vẫn giữ thế bất động quân bình ( vô vi ) để cầm vững khí lực và chiến thắng trong phút cuối cùng . Áp dụng phép Hư Không trong nghệ thuật , thì dùng đến sự khêu gợi hơn là nói thẳng ra .
Đó là thuật dè dặt và gìn giữ lời nói , không nói hết ý nghĩ của mình . Đó là để cho người thưởng thức nghệ phẩm của mình có được cơ hội tự mình tìm chỗ chưa nói ra mà hoàn thành ý nghĩ đang bỏ sót . Như vậy người thưởng thức nghệ phẩm cảm thấy mình cũng là người đã 1 phần nào góp phần cộng tác trong tác phẩm . Trong tác phẩm có nhiều chỗ trống để cho ta tha hồ thả hồn thẩm mĩ chứa chan của ta thâm nhập vào đó .
Những chỗ không lời ( hư ngôn ) ấy , tuy thấy là im lặng nhưng là thứ “ im lặng hùng biện “ , có khi còn hùng biện hơn cả sự hùng biện nữa .:” Đại biện nhược nột “. Nên chi lão Tử mới bảo rằng công dụng của nó vô cùng huyền diệu .
Một câu văn , 1 bài văn , 1 quyển sách hoặc 1 nghệ phẩm mà được hoàn toàn thành công là nhở ở những chỗ thấy như thiếu sót , như là dở dang ...tức là còn những chỗ khuyết hám cố ý của nghệ sĩ cho nên chỗ dùng của nó không bao giờ hết .Cũng như thật đầy đủ lại dường như trống không , thì chỗ dùng của nó mới vô cùng ... Nói thẳng mà giả vờ như nói vòng quanh , thật khéo lại dường như vụng về , thật hùng biện lại dường như nói chẳng ra lời ... Đó là phép thiện dụng Hư Vô .
&&&
Tóm lại Lão Tử sở dĩ chủ chương Hư Vô và Vô Vi Thanh Tịnh , là vì ông chú trọng đến cái gốc hơn cái ngọn của Vạn Hữu .
Người ta trách văn chương của Lạo Tử quá cô đọng , thiếu rõ ràng tách bạch như văn chương người Tây Phương ngày nay ... là vì người ta chưa rõ cái công dụng vô cùng sâu sắc của Hư Vô !
... Đại thành nhược khuyết ...
Đại doanh nhược xung
Đại biện nhược nột ...
Kì dụng bất cùng !
&&&&&&
Vô Vi 3.
Thi phú mà vượt lên thật cao , cũng vượt lên cả Mộng và Thực , mà vào cõi Hư Không , nghỉa là không còn Mộng không còn Thực chi nữa , cũng không còn Trang Châu , cũng không còn Hồ Điệp .
Trang Châu mơ thấy mình hóa bướm , Châu lấy làm thích thú , không nhớ mình là Châu nữa . Chợt khi tỉnh giấc , thấy mình là Châu , cũng không nhớ mình là bướm ... Bướm và Châu , Châu và Bướm , ai thực , ai hư ? Cái ta của Châu , không rõ thực tế ở đâu ? Tâm quên ( hư ) thì cảnh cũng hư .mất cả 2 , mới là Đạo . Đó là đạt đến cái “ Tâm Huyền Đồng “ nên gọi là Tâm Hư .
Thật đúng với câu thi thần của Cao Bá Quát “đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt “
Một vị chân tu , ban đầu tu thì còn thấy Phật trước mắt , nhưng tu mãi ... thì mất Phật , vì Phật đã trốn mất về Tây Phương .
Tâm có hư mới có thể giàu vô lượng , cho mãi mà không hết : “Càng cho , càng thêm nhiều “ ( Thánh nhân bất tích , kí dĩ vi nhân kỉ dũ hữu , kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa ) .
Và bởi có cái tâm hư nên người theo phong thái Lão Trang luôn luôn có cái phong thái tự do phóng khoáng , không bị hạn chế trong bất cứ khuôn khổ nào của nhân vi .
Đời sống là 1 cuộc “hằng chuyển nhi bộc lưu “ , 1 cái gì đã qua là qua hẳn , không thể còn lo mà sửa đổi lại được ! Dòng đời cuồn cuộn như nước chẩy :” thệ già như tư phù , bất xả trú dạ “ ! Từng lúc từng mới , và mỗi cái niệm . Là 1 cái đã qua .
Có người hỏi Tào Sơn Hòa Thượng : thế nào là đạo ? Ngài trả lời :”Trả lời quả không khó . Nhưng điều thiết yếu là người phải bắt kịp câu ta nói ngay khi vừa thoát khỏi cửa miệng kìa ! Được vậy là người đã gần Đạo . Bằng không , sau đó người sẽ suy luận hoang mang rồi lại đổ lỗi về cho ta . Vậy , thà ta im lặng còn hơn , để tránh cho nhau những điều lầm lẫn “.
Về phương diện nghệ thuật nói chung .công dụng của Hư Không cũng được áp dụng bằng phép khêu gợi ... Dùng lời nói hữu hạn , không làm sao miêu tả được cái vô hạn như Chân Lý , cho nên công dụng của cái Không trong nghệ thuật Đông Phương là nghệ thuật biểu diễn cái Không Lời !(Ngôn vô ngôn ) . (Nói mà không có nói ) như Phật tổ Như Lai , sau khoảng 49 năm thuyết pháp đã long trọng tuyên bố : “ chưa từng nói 1 lời nào “.
Trong văn nghệ phẩm thượng thừa của Đông Phương , vì vậy , phần nói lên được , không phải là phần chính . Phần chính lại là phần không nói được nên lời , bất cứ trong câu văn hay bức họa .
Những bức tranh không lời , rất dồi dào ý nghĩa hơn những bức họa có lời ...Những bản nhạc không lời thâm trầm hơn những bản đàn có lời , bị hạn chế trong 1 ý niệm của thi nhân . Người ta bảo :” Kẻ nào chưa biết tự hạn chế , không bao giờ biết viết văn “. Đúng ! Nhưng tôi muốn nói thêm : kẻ nào chưa biết phải giữ im lặng những chỗ cần im lặng , cũng chưa có thể viết được văn hay . Không có gì làm chán người ta bằng kể lể dài dòng và nói đến : “cạn tàu ráo máng “ .
Lão Tử nói rất đúng :” Người ôm ấp được Đạo cả , không bao giờ muốn đầy “ ( Bảo thủ Đạo , bất dục doanh ) Là tại sao ? Là vì ” cái gì sâu thì lại đầy “ (oa tắc doanh ) , mà đầy thì đổ không chưa được gì cả . Bởi vậy văn chương nghệ thuật Đông Phương thuộc về Đạo học đều chăm chú vào những cái gì “ bất toàn “ những cái gì “cong queo “ nói vòng quanh hay giả vờ , những cái gì thiếu thốn .
Khúc tắc toàn
Uổng tắc trực
Oa tắc doanh
Tệ tắc tân
Thiểu tắc đắc
Đa tắc hoặc.
Phàm cái gì thiếu cũng hay hơn đủ , lại càng hay hơn cái thừa . Trong văn chương nghệ thuật , hễ bớt lời là thêm mạnh cho ý ...Ý mà rườm rà sẽ làm giảm bớt sức khêu gợi và lòng hứng thú :” tổn nhi chi ích , ích chi nhi tổn “ ( bớt là thêm , thêm là bớt ) . Không nói , nhưng nếu cần phải nói , thì chỉ nên nói nửa lời thôi .
Nhà văn Nhật Bản Okarura Kakuzo cũng nhận xét rằng :” Hư vô là toàn năng , vì nó có sức chịu đựng hết thẩy vạn vật .Chỉ có trong chỗ hư không mới có thể phát sinh những sự chuyển động . Kẻ nào tự làm cho mình biến thành 1 cái hư không để cho kẻ khác có thể đi vào , kẻ ấy có thể làm chủ được mọi tình thế ... ngay trong lí thuyết của mọi lí thuyết về môn kiếm thuật hay môn đấu vật đều căn cứ vào sự áp dụng của hư không .
Sở dĩ thuật tự vệ của Nhật Bản mà ta thường gọi là Nhu Thuật hoặc Nhu Đạo là do câu “ Nhu thắng cương , nhược thắng cường “ của Lão Tử . Trong Nhu Đạo , cái mà người ta gọi là dùng phương pháp đề kháng bất bạo động , chính là phép tạo ra 1 cái thế Hư Không để dụ địch cho kiệt lực ( vì họ quá dùng đến cái đạo hữu vi hay ngạnh công ) . trong khi đó mình vẫn giữ thế bất động quân bình ( vô vi ) để cầm vững khí lực và chiến thắng trong phút cuối cùng . Áp dụng phép Hư Không trong nghệ thuật , thì dùng đến sự khêu gợi hơn là nói thẳng ra .
Đó là thuật dè dặt và gìn giữ lời nói , không nói hết ý nghĩ của mình . Đó là để cho người thưởng thức nghệ phẩm của mình có được cơ hội tự mình tìm chỗ chưa nói ra mà hoàn thành ý nghĩ đang bỏ sót . Như vậy người thưởng thức nghệ phẩm cảm thấy mình cũng là người đã 1 phần nào góp phần cộng tác trong tác phẩm . Trong tác phẩm có nhiều chỗ trống để cho ta tha hồ thả hồn thẩm mĩ chứa chan của ta thâm nhập vào đó .
Những chỗ không lời ( hư ngôn ) ấy , tuy thấy là im lặng nhưng là thứ “ im lặng hùng biện “ , có khi còn hùng biện hơn cả sự hùng biện nữa .:” Đại biện nhược nột “. Nên chi lão Tử mới bảo rằng công dụng của nó vô cùng huyền diệu .
Một câu văn , 1 bài văn , 1 quyển sách hoặc 1 nghệ phẩm mà được hoàn toàn thành công là nhở ở những chỗ thấy như thiếu sót , như là dở dang ...tức là còn những chỗ khuyết hám cố ý của nghệ sĩ cho nên chỗ dùng của nó không bao giờ hết .Cũng như thật đầy đủ lại dường như trống không , thì chỗ dùng của nó mới vô cùng ... Nói thẳng mà giả vờ như nói vòng quanh , thật khéo lại dường như vụng về , thật hùng biện lại dường như nói chẳng ra lời ... Đó là phép thiện dụng Hư Vô .
&&&
Tóm lại Lão Tử sở dĩ chủ chương Hư Vô và Vô Vi Thanh Tịnh , là vì ông chú trọng đến cái gốc hơn cái ngọn của Vạn Hữu .
Người ta trách văn chương của Lạo Tử quá cô đọng , thiếu rõ ràng tách bạch như văn chương người Tây Phương ngày nay ... là vì người ta chưa rõ cái công dụng vô cùng sâu sắc của Hư Vô !
... Đại thành nhược khuyết ...
Đại doanh nhược xung
Đại biện nhược nột ...
Kì dụng bất cùng !
&&&&&&
Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2008
Vô Vi 4
Lão Tử Tinh Hoa –Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Vô Vi 4.
Nghệ thuật Đông Phương chịu ảnh hưởng rất nặng tư tưởng hư không , cho nên bao giờ cũng có khuynh hướng biểu diễn cái vô cùng vô tận của vũ trụ trong những cái gì nhỏ bé , thiếu sót như câu văn , nét học vô cùng hữu hạn của chúng ta .
Trong phép hội họa của người Tây Phương , người ta rất để ý đến cái luật viễn thị , phân biệt rõ cái gần cái xa . Trái lại , đối với nghệ sĩ Đông Phương , tôi muốn nói đến phái Đạo học ,lại muốn tiêu diệt cái luật ấy , tức là muốn tiêu hủy cả cái quan niệm về không gian bằng sự bất chấp cái luật viễn thị của Tây Phương . Điều quan trọng đối với người nghệ sĩ Đông Phương là tìm cách nắm lấy cái căn bản của Vũ Trụ , nghĩa là cái tinh hoa , cái vô cùng vô tận ẩn núp trong từng sự vật .
Sao gọi là gần ? Sao gọi là xa ? Đấng Thượng Đế , Trời hay Đạo , có khi gần ta hơn cái Tiểu Ngã của ta . Ngọn núi xa kia có khi lại gần ta hơn là những cây cối xung quanh ta . Lắm khi ta đang ngồi trên chiếc ghe trôi trên dòng sông , mà ta lại đang khao khát đi tìm nước uống , như đang sống trong tự do mà chả biết tự do là gì cả !
Lục Tổ Huệ Năng phái Thiền , ngày kia đã giải quyết cuộc cãi nhau giữa 2 nhà sư về là Phướn trước Chùa .. Một nhà sư bảo : chính gió làm cho là phướn bay . Nhà sư khác bảo : Chính là phướn bay . Huệ Năng nói : Chả phải lá phướn lay động hoặc gió làm cho lá phướn lay động , mà chính cái tâm của các ông động .
Tất cả mọi hình thức đều là những hình thức tương đối của sự động chuyển , chứ không phải là hình thức tuyệt đối . Nghệ thuật phải cố gắng đạt đến chỗ tuyệt đối là vô ngôn .Cho nên theo Đông Phương Thi đứng sau Họa , vì Thi còn hữu ngôn mà Họa là vô ngôn . Một bức họa nói lên bằng cả trăm ngàn lời .
Tìm cách để nắm lấy cái tuyệt đối nên phải phá hủy các hình thức tự nhiên có tên , để tạo lấy những hình thức mĩ thuật không tên .Vì vậy, mới có lối cấu tạo hỗn động , không lề lối nhất định gì cả . Thay vì vẽ 1 cái cây đầy đủ , họa sĩ thượng thặng chỉ vẽ có cái thân cây không gốc , không ngọn . Một ngôi nhà chỉ thấy có cái nóc ở góc cạnh nào thôi . Vậy thì , cái công dụng của mĩ thuật theo lối họa này là để thực hiện câu “ khúc tắc toàn , oa tắc doanh “của Lão Tử . Những hình thức tuyệt đối gây được nhiều mĩ cảm nhất , là những hình thức bất toàn và trống không , những hình thức không hình thức .Giá trị thật về mĩ cảm luôn luôn ở nơi giá trị của sự khêu gợi .
Hư không trong hội họa Đông Phương , cũng được tượng trưng bằng những nét bút mạnh và thẳng ... dường như chỉ phớt qua trên mặt giấy , và ta có cảm giác là nó đang bay đi , không chịu trụ vào mặt giấy . Cho nên người ta đánh giá 1 họa sĩ nơi những nét bút vừa mạnh vừa nhẹ nhàng , và táo bạo của họ .
Nhất là trên những bức tranh thủy mặc , họa sĩ chỉ dùng có 1 màu đen đậm nhạt hòa với nước lã trên tờ giấy trắng thôi , chứ không thích màu sắc lòe loẹt . Là vì chỉ có sự đơn giản nhất mới tượng trưng được Hư Không , nghĩa là sự vô cùng . Âm Dương dùng làm bóng tối và ánh sáng , mực đậm thì bóng sáng sẽ tỏ hơn . Cho nên với sự đậm nhạt của màu đen mà màu trắng trở thành nổi nhiều nổi ít .
Vạn vật phụ âm nhi bảo dương , xung khí dĩ vi hòa .
Xung khí tức là cái khí của hư vô , ở hội họa , nó là những nét bút làm cho âm dương trong bức họa được điều hòa . Muốn nhận thấy cái thần trong chữ viết hay bức họa , người ta cứ nhìn cái nét bút của nghệ sĩ .
4 điễm vừa kể trên , như sự bất chấp luật viễn thị , sự cấu tạo không nguyên tắc , sự chú trọng về nét bút , và thủy mặc là những đặc điểm của ngành hội họa phái siêu thoát của Trung Hoa đều có công dụng thoát khỏi không gian ... để cho được cận với hư không .
Bởi vậy 1 học giả Tây Phương rất thâm về Đạo học Đông Phương đã khuyên người Tây Phương của họ, nếu muốn đọc sách của người Đông Phương , đừng lưu ý đến lời , mà hãy lưu ý đến những gì sách đã khêu gợi được mà thôi .
Thi văn cũng như hội họa thượng thặng của Đông Phương vì vậy mà quý sự giản dị , cô đọng và hàm súc . nhất là hết sức khêu gợi với những hình ảnh lung linh , những câu văn không lời ( Vô ngôn ) , dài ngắn bất thường . Phải biết đắc ý nhi vong ngôn , thì mới có thể thưởng thức được nghệ phẩm của Đông Phương , như Trang Tử đã nói :
Sống là quân bình , vì Đạo là Quân Bình . Nhưng có mất Quân bình , mới có động chuyển mà thôi . Có mất quân bình giữa 2 luồng điện Âm Dương mới có dòng điện .Có mất quân bình giữa nóng và lạnh mới có luồng gió mát , mới có sự vận chuyển của thiên nhiên . Những sự mất quân bình ấy trên thế gian này , mới thấy tưởng chừng như không có quân bình , mà kì thực là những sự mất quân bình tạm , đang tìm cách để lập lại cái quân bình đã tạm thời bị gián đoạn .
Những hình thức cân đối , làm cho ta cảm thấy như 1 cái gì bất động , nghĩa là thiếu sống . Bởi vậy , thi sĩ như nhạc sĩ ,phải biết làm mất để giữ cho còn , chứ không nên : “ tri đắc nhi bất tri thất , tri tồn nhi bất tri vong “ .Làm cho mất để giữ cho còn là phải biết câm lặng khi đang nói sướng mồm , biết phá niêm luật , biết giả vở bỏ quên bỏ sót , phải biết ấp a ấp úng ... như trước đây đã nói ... Đó là nghệ thuật tối cao rất khó cho hạng nghệ sĩ tầm thường .
Lão Tử khuyên ta “ thượng đức nhược cốc “
Phải lấy đó làm câu châm ngôn vàng ngọc ,1 mật pháp của văn nghệ thượng thặng . Thiện dụng Hư Vô đâu phải dễ .
&&&
Thật là thì , không nên có sự dài dòng giải nghĩa : đừng nói ra hết , đừng kết luận ... Thi sĩ là người biết giữ im lặng , biết “ tri túc tri chỉ “.
Trong quyển “ tâm tình người đẹp “ Vũ Hoàng Chương có trích đăng ít bài thi của nữ thi nhân Simone de la Coeuillerie bắt chước theo điệu Hài cú của Nhật .Những bài này có 1 hấp dẫn mới lạ , làm rung cảm lòng ta , gợi cho ta vài ý niệm của cái vô tận ... của thi văn .
Tôi xin đơn cử 2 bài để đối chiếu , bài Cây Bông Hồng và bài Buổi Hôm Qua :
Một cây hồng ... ba bông hồng
Một bông thì để bày trong điện thờ
Bông kia để đặt trong mồ
Còn bông này để dành cho động phòng .
Ba bông cùng 1 bông hồng .
Như vậy là hay rồi ! Nhưng không sánh kịp sức khêu gợi của bài sau này :
Hôm qua một đạo binh
Không làm tôi sợ
Chiều nay tôi sợ bóng mình .
Đó là thi của vô biên .Thi mà được giải nghĩa , được kết luận ...là thi bị cùng tận hóa rồi ! bai thi Cây Bông Hồng ít chất hư vô hơn bài Buổi Hôm Qua ...
Về phương diện xử thế , nhà Đạo học xử sự cũng như nhà nghệ sĩ : hiền giả là 1 thi nhân .Theo người Đông Phương Thi và Đạo là 1 .
&&&&&&
Vô Vi 4.
Nghệ thuật Đông Phương chịu ảnh hưởng rất nặng tư tưởng hư không , cho nên bao giờ cũng có khuynh hướng biểu diễn cái vô cùng vô tận của vũ trụ trong những cái gì nhỏ bé , thiếu sót như câu văn , nét học vô cùng hữu hạn của chúng ta .
Trong phép hội họa của người Tây Phương , người ta rất để ý đến cái luật viễn thị , phân biệt rõ cái gần cái xa . Trái lại , đối với nghệ sĩ Đông Phương , tôi muốn nói đến phái Đạo học ,lại muốn tiêu diệt cái luật ấy , tức là muốn tiêu hủy cả cái quan niệm về không gian bằng sự bất chấp cái luật viễn thị của Tây Phương . Điều quan trọng đối với người nghệ sĩ Đông Phương là tìm cách nắm lấy cái căn bản của Vũ Trụ , nghĩa là cái tinh hoa , cái vô cùng vô tận ẩn núp trong từng sự vật .
Sao gọi là gần ? Sao gọi là xa ? Đấng Thượng Đế , Trời hay Đạo , có khi gần ta hơn cái Tiểu Ngã của ta . Ngọn núi xa kia có khi lại gần ta hơn là những cây cối xung quanh ta . Lắm khi ta đang ngồi trên chiếc ghe trôi trên dòng sông , mà ta lại đang khao khát đi tìm nước uống , như đang sống trong tự do mà chả biết tự do là gì cả !
Lục Tổ Huệ Năng phái Thiền , ngày kia đã giải quyết cuộc cãi nhau giữa 2 nhà sư về là Phướn trước Chùa .. Một nhà sư bảo : chính gió làm cho là phướn bay . Nhà sư khác bảo : Chính là phướn bay . Huệ Năng nói : Chả phải lá phướn lay động hoặc gió làm cho lá phướn lay động , mà chính cái tâm của các ông động .
Tất cả mọi hình thức đều là những hình thức tương đối của sự động chuyển , chứ không phải là hình thức tuyệt đối . Nghệ thuật phải cố gắng đạt đến chỗ tuyệt đối là vô ngôn .Cho nên theo Đông Phương Thi đứng sau Họa , vì Thi còn hữu ngôn mà Họa là vô ngôn . Một bức họa nói lên bằng cả trăm ngàn lời .
Tìm cách để nắm lấy cái tuyệt đối nên phải phá hủy các hình thức tự nhiên có tên , để tạo lấy những hình thức mĩ thuật không tên .Vì vậy, mới có lối cấu tạo hỗn động , không lề lối nhất định gì cả . Thay vì vẽ 1 cái cây đầy đủ , họa sĩ thượng thặng chỉ vẽ có cái thân cây không gốc , không ngọn . Một ngôi nhà chỉ thấy có cái nóc ở góc cạnh nào thôi . Vậy thì , cái công dụng của mĩ thuật theo lối họa này là để thực hiện câu “ khúc tắc toàn , oa tắc doanh “của Lão Tử . Những hình thức tuyệt đối gây được nhiều mĩ cảm nhất , là những hình thức bất toàn và trống không , những hình thức không hình thức .Giá trị thật về mĩ cảm luôn luôn ở nơi giá trị của sự khêu gợi .
Hư không trong hội họa Đông Phương , cũng được tượng trưng bằng những nét bút mạnh và thẳng ... dường như chỉ phớt qua trên mặt giấy , và ta có cảm giác là nó đang bay đi , không chịu trụ vào mặt giấy . Cho nên người ta đánh giá 1 họa sĩ nơi những nét bút vừa mạnh vừa nhẹ nhàng , và táo bạo của họ .
Nhất là trên những bức tranh thủy mặc , họa sĩ chỉ dùng có 1 màu đen đậm nhạt hòa với nước lã trên tờ giấy trắng thôi , chứ không thích màu sắc lòe loẹt . Là vì chỉ có sự đơn giản nhất mới tượng trưng được Hư Không , nghĩa là sự vô cùng . Âm Dương dùng làm bóng tối và ánh sáng , mực đậm thì bóng sáng sẽ tỏ hơn . Cho nên với sự đậm nhạt của màu đen mà màu trắng trở thành nổi nhiều nổi ít .
Vạn vật phụ âm nhi bảo dương , xung khí dĩ vi hòa .
Xung khí tức là cái khí của hư vô , ở hội họa , nó là những nét bút làm cho âm dương trong bức họa được điều hòa . Muốn nhận thấy cái thần trong chữ viết hay bức họa , người ta cứ nhìn cái nét bút của nghệ sĩ .
4 điễm vừa kể trên , như sự bất chấp luật viễn thị , sự cấu tạo không nguyên tắc , sự chú trọng về nét bút , và thủy mặc là những đặc điểm của ngành hội họa phái siêu thoát của Trung Hoa đều có công dụng thoát khỏi không gian ... để cho được cận với hư không .
Bởi vậy 1 học giả Tây Phương rất thâm về Đạo học Đông Phương đã khuyên người Tây Phương của họ, nếu muốn đọc sách của người Đông Phương , đừng lưu ý đến lời , mà hãy lưu ý đến những gì sách đã khêu gợi được mà thôi .
Thi văn cũng như hội họa thượng thặng của Đông Phương vì vậy mà quý sự giản dị , cô đọng và hàm súc . nhất là hết sức khêu gợi với những hình ảnh lung linh , những câu văn không lời ( Vô ngôn ) , dài ngắn bất thường . Phải biết đắc ý nhi vong ngôn , thì mới có thể thưởng thức được nghệ phẩm của Đông Phương , như Trang Tử đã nói :
Sống là quân bình , vì Đạo là Quân Bình . Nhưng có mất Quân bình , mới có động chuyển mà thôi . Có mất quân bình giữa 2 luồng điện Âm Dương mới có dòng điện .Có mất quân bình giữa nóng và lạnh mới có luồng gió mát , mới có sự vận chuyển của thiên nhiên . Những sự mất quân bình ấy trên thế gian này , mới thấy tưởng chừng như không có quân bình , mà kì thực là những sự mất quân bình tạm , đang tìm cách để lập lại cái quân bình đã tạm thời bị gián đoạn .
Những hình thức cân đối , làm cho ta cảm thấy như 1 cái gì bất động , nghĩa là thiếu sống . Bởi vậy , thi sĩ như nhạc sĩ ,phải biết làm mất để giữ cho còn , chứ không nên : “ tri đắc nhi bất tri thất , tri tồn nhi bất tri vong “ .Làm cho mất để giữ cho còn là phải biết câm lặng khi đang nói sướng mồm , biết phá niêm luật , biết giả vở bỏ quên bỏ sót , phải biết ấp a ấp úng ... như trước đây đã nói ... Đó là nghệ thuật tối cao rất khó cho hạng nghệ sĩ tầm thường .
Lão Tử khuyên ta “ thượng đức nhược cốc “
Phải lấy đó làm câu châm ngôn vàng ngọc ,1 mật pháp của văn nghệ thượng thặng . Thiện dụng Hư Vô đâu phải dễ .
&&&
Thật là thì , không nên có sự dài dòng giải nghĩa : đừng nói ra hết , đừng kết luận ... Thi sĩ là người biết giữ im lặng , biết “ tri túc tri chỉ “.
Trong quyển “ tâm tình người đẹp “ Vũ Hoàng Chương có trích đăng ít bài thi của nữ thi nhân Simone de la Coeuillerie bắt chước theo điệu Hài cú của Nhật .Những bài này có 1 hấp dẫn mới lạ , làm rung cảm lòng ta , gợi cho ta vài ý niệm của cái vô tận ... của thi văn .
Tôi xin đơn cử 2 bài để đối chiếu , bài Cây Bông Hồng và bài Buổi Hôm Qua :
Một cây hồng ... ba bông hồng
Một bông thì để bày trong điện thờ
Bông kia để đặt trong mồ
Còn bông này để dành cho động phòng .
Ba bông cùng 1 bông hồng .
Như vậy là hay rồi ! Nhưng không sánh kịp sức khêu gợi của bài sau này :
Hôm qua một đạo binh
Không làm tôi sợ
Chiều nay tôi sợ bóng mình .
Đó là thi của vô biên .Thi mà được giải nghĩa , được kết luận ...là thi bị cùng tận hóa rồi ! bai thi Cây Bông Hồng ít chất hư vô hơn bài Buổi Hôm Qua ...
Về phương diện xử thế , nhà Đạo học xử sự cũng như nhà nghệ sĩ : hiền giả là 1 thi nhân .Theo người Đông Phương Thi và Đạo là 1 .
&&&&&&
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)