Dịch học tinh hoa –Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Lời nói đầu 1 :
Kinh Dịch đối với học thuật Trung Hoa quả là 1 kì thư gồm nắm được tất cả mọi nguyên lí sinh thành và suy huỷ của vạn vật . Có người đã bảo : Dịch , quán quần kinh chi thủ . ( Dịch là quyển sách đầu não bao quát tất cả mọi kinh sách của nền văn học , nghệ thuật và khoa học của Trung Quốc ) Có đúng như vậy .
Nhưng đọc Dịch rất khó .
Khó nhất là sự quan trọng của Dịch không phải là ở Lời , mà ở Tượng và Số , không phải ở Tượng và Số mà ở Ý . Ý tại ngôn ngoại , như Chu Hi đã nói , trong Dịch Thuyết Cương Lĩnh . Phục Hi vạch ra 8 quẻ , tuy chỉ có mấy nét mà bao quát được hết mọi lẽ huyền vi trong trời đất . Kẻ học hiểu được ở Lời thì chỉ hiểu được phần thiển cận , mà khi nào hiểu được phần Tượng mới mong đạt đền phần tinh thâm diệu nghĩa của nó mà thôi .
Thật vậy có đọc Lời mới đạt đến chổ không lời của sách Dịch . Trình Di nói : Tiên nhân vì Ý mà truyền Lời , kẻ hậu học lại đọc Lời mà quên Ý : Dịch , vì vậy mà thất truyền từ lâu .
Dịch là biến . Nghĩa chánh của nó là thế . Mà văn từ lại thuộc về tịnh giới , không làm sao biểu diễn được cái động cực kì mau chóng của Đạo . Bởi vậy ,đọc Dịch mà chết trong Lời là chưa biết đọc Dịch . Dịch Kinh là 1 thứ kinh vô tự .
Hơn nữa , Dịch có nghĩa là biến và biến 2 chiều xuôi ngược , thì với đầu óc nhị nguyên lí trí chỉ suy nghĩ có 1 chiều thuận hay nghịch , không làm gì đọc nổi 1 câu Kinh Dịch .
&&&
Chú thích : Tỉ như nói Thăng , phải hiểu rằng Thăng để mà giáng . Còn nói Giáng , phải hiểu rằng Giáng để mà thăng , danh từ nào cũng chứa mâu thuẫn của nó .
&&&
Thảo nào đã có không biết bao nhiêu người thú nhận không sao chịu nổi sự mù mờ đầy mâu thuẫn của kinh Dịch , nên đã bị bắt buộc bỏ nó giữa đường , mặc dù thường nghe nói đến danh tiếng của nó . Dịch , vì vậy đã bị xem như chỉ là 1 bộ sách bói toán , và ngay thời xưa bên Trung Hoa nhờ đã được hiểu như thế nên mới tránh được nạn lửa Tần .
Đến ngày nay , trong dân gian cũng như trong hàng trí giả Dịch vẫn còn được hiểu chỉ là 1 bộ sách bói không hơn không kém . Một số người hiểu được nhược điểm hiện thời của đa số con người đang sống khắc khoải của 1 ngày mai mù mịt , đổ xô vào con đường bói toán , không phải để tìm hiểu sự thật mà chỉ để tìm an ủi để sống cầm hơi trong những thời nhiễu nhương không tiền khoáng hậu này .
Tin dị đoan đã thành 1 nhu cầu tâm lí , cho nên phong trào bói toán đã được lan rộng 1 cách đáng lo ngại . Ôi ! Kinh Dịch sẽ bị bọn thầy bói mu rùa lợi dụng mà chết , nhưng cũng chính nhờ bọn họ mà nó còn sống vất vưởng đến ngày nay ! Cái đở cái hay của nó là đó . Sau đây tôi sẽ bàn qua dụng ý của tiền nhân đã dùng sách Dịch làm sách bói toán . Đó là tôi chưa nói đến cái tinh thâm linh diệu của 1 khoa học mà người xưa gọi là khoa học tiên tri tiên giác , cái mà Lão Tử đã bảo : bất xuất hộ nhi tri thiên hạ . Tôi sẽ bàn đến nó trong 1 khi khác và 1 nơi khác , trong quyển Đạo giáo sau này .
Tôi chỉ xin lưu ý những ai chưa được từng nghiên cứu đến cái gọi là khoa tiên tri tiên giác mà lại đã vội vàng căn cứ vào khoa học gán cho nó là dị đoan để cho rồi việc , thay vì để tâm nghiên cứu kỹ , nên nghiền ngẫm lại câu nói này của nhà toán học đại tài H . Poincaré ; phỏng đoán trước khi chứng minh , tôi có cần nhắc với quí vị rằng , chính nhờ thế mới có được những phát minh quan trọng chăng ? Chính là chỗ mà Dịch bảo : thần dĩ tri lai !
Theo chúng tôi , Dịch có 2 bộ phận : hình nhi thượng học và hình nhi hạ học . Dịch cũng gồm cả 2 cái học nhị nguyên và nhất nguyên . Bởi vậy , Dịch chẳng những là 1 bộ sách triết lí siêu hình và huyền nhiệm của huyền học Trung Hoa , nó cũng là bộ sách triết lí khoa học của bất cứ khoa học nào của Trung Hoa như Y học , Thiên văn học , Xã hội học , Tâm lí học , Âm Dương học , Địa lí học ,Toán học , Số lí học … và cả những khoa học gọi là huyền bí nữa .
Ngày nay , có 1 số nhà bác học Tây phương khá đông đã biết khai thác nó , và biết dùng đến khoa học giải thích nó . Một số người chúng ta reo mừng vì kinh Dịch đã được Tây phương khoa học chấp nhận và ca tụng . Họ có lí . Nhưng theo tôi , giá trị thực sự của kinh Dịch đâu phải chỉ ở những gì nó đã được khoa học hiện đại Tây phương chứng nhận , mà chính ở những gì mà khoa học hiện đại của Tây phương bó tay không khai thác nổi .
Tôi muốn nói đến những giá trị huyền nhiệm thiêng liêng của nó nơi tâm linh con người . Cái mà phần đông các khoa học gia Tây phương hiện đại khai thác được chỉ dừng ở phần hình nhi hạ của nó mà thôi . Chỉ 1 số nhỏ , từ khoa nguyên tử học đã mở rộng biên giới hữu hình và vô hình , và có lẽ sau này , kinh Dịch sẽ được phương pháp nghiên cứu khoa học Tây phương giúp cho nó có 1 bộ mặt thiết thực và khoa học , dễ hiểu hơn cho tất cả mọi người . Dịch sẽ không còn 1 bộ mặt huyền bí như xưa nữa . Sự cộng tác chân thành giữa Đông Tây sau này là nơi đây .
Đọc Dịch khó , như đã nói trên đây , vì Dịch chẳng những chỉ có 1 nghĩa , mà còn nhiều nghĩa . Dịch là biến , mà cũng là bất biến . Hay nói 1 cách khác , Dịch là Động , động trong cái tịnh . Bởi vậy , Thiệu Khang Tiết mới bảo : Từ chỗ biến mà biết chỗ bất biến , mới có thể bàn đến Dịch . Thật vậy , Âm Dương là căn bản của mọi cuộc biến động , nhưng Âm Dương lại chẳng phải là 2 , tuy trong thực tế rõ ràng là 2 . Khó là chỗ đó , Âm là tịnh , Dương là động . Nhưng : Âm trung hữu Dương căn , Dương trung hữu Âm căn . Thì trong Tịnh đã có gốc Động , trong Động có gốc Tịnh .
Bởi vậy Lão Tử mới khuyên ta dè dặt : Hoạ trung hữu phúc , phúc trung hữu hoạ . Luật này có thể gọi là luật quan trọng nhất : luật phản phục . Toàn thể bộ Dịch chỉ nói đi nói lại có cái luật ấy mà thôi . Trong 64 quẻ , không quẻ nào không có tàng ẩn luật Phản Phục . Thử lấy quẻ Phong ( Lôi Hoả Phong ) để làm 1 ví dụ điển hình : Phong là nói về thời cực thịnh ,vậy mà Thoán , Hào , Tượng đều xấu là phần nhiều , lời răn đe lại cũng nhiều .
Là vì mầm họa thường núp trong phúc , phúc nhỏ , hoạ nhỏ , phúc to , hoạ to . Lẽ trong thiên hạ , bất cứ trong trường hợp nào ,cá nhân hay toàn thể , hễ thịnh cực thì cái triệu suy vong đã nằm sẵn nơi trong rồi . Cũng như mặt trời lúc đứng bóng , thế nào cũng sắp xế ; mặt trăng lúc tròn đấy , thế nào cũng khuyết lần .( Nhựt trung tắc trắc , nguyệt doanh tắc thực ) .
Phong là thời cực thịnh , vậy phải lo đến cái cơ suy sắp đến . Cho nên gặp thời Phong , tuy đáng mừng mà cũng đáng lo . Nhưng đáng lo nhất là lúc cực thịnh , nghĩa là không phải lo thịnh mà lo quá thịnh . Cũng như đắc ý là thường , nhưng đáng lo nhất là lúc qúa đắc ý . hễ được Doanh ( là tràn đầy ) thì phải lo Hư ( thiếu hụt ) sắp tới . Gặp thời Tiêu ( mòn lần ) là cũng nên hi vọng thời Tức ( nở ra ) sắp đến .
Sự vật đều như thế , thì việc người cũng chẳng khác hơn . Bốn chữ Doanh , Hư , Tiêu , Tức tiếp nối nhau như 1 Âm 1 Dương ( nhất âm nhất dương chi vị đạo ) . Bốn chữ này ,Thoán truyện chỉ có nói ở quẻ Phong và quẻ Bác . Ở quẻ Bác , đạo người quân tử đang tiêu hư , nhưng mà đã có cái cơ doanh tức cùng lúc ấy mà sinh ra . Vật cùng tắc biến , là luật căn bản của Dịch . Cho nên , ở trong tiêu hư đừng sinh lóng chán nản .
Thời Phong là đến lúc Tức Doanh . nhưng mà cũng chính là lúc Tiêu Hư bắt đầu sinh ra . Tóm lại , thời Bác ( tăm tối nhất ) trong đó đã ngầm chứa Tức Doanh ; thời Phong ( sang sủa nhất ) bên trong cũng đã ngầm chứa Tiêu Hư . Đọc Dịch , chỉ cần đọc đến các quẻ Thái , quẻ Bĩ , quẻ Bác , quẻ Phục cũng đủ thấy rõ cái lẽ thịnh suy , trị loạn tuy do lẽ trời mà cũng cốt ở nơi người . Toàn thể bộ Dịch đều như thế , có Trời mà cũng có Ta . Trời đây là luật tự nhiên ( thiên nhân tương ứng ) .
Dịch lí , vì vậy có đủ kinh đủ quyền , có lúc thường lúc biến . Thánh nhân học Dịch , theo lời cũ mà phát minh được nghĩa mới , nếu cứ bo bo theo sát văn từ , câu nệ mà chẳng biến thông , không sinh được ý gì mới cả , sẽ không bao giờ học Dịch nổi . Dịch là nói về lẽ sống . Người câu nệ là kẻ đã chết , chết trong quá khứ , chết trong khuôn khổ . Nhất hồi niêm xuất nhất hồi xuân . ( một lần nói ra là mỗi lần mới ) .
Viết tập sách này , tôi đã nghiên cứu rất nhiều sách vở xưa cũng như nay , sách ngoại quốc cũng như sách trong nước , Nhưng có nhiều chỗ , tôi không theo sách lại theo ý riêng , có khi lại quên cả sách nữa để tiêu hoá , nhưng bao giờ cũng cố giữ đúng theo những nguyên tắc căn bản và truyền thống của Dịch . Dĩ nhiên , khi bác bỏ , bao giờ cũng nêu lên lí do . Vì mỗi nhà mỗi có sự giải thích theo sở kiến của mình . Theo bản thống kê các sách bàn về Dịch từ đời Chu đến đời Thanh đã có 158 bộ , 1761 quyển . Đó chỉ là ước lượng . Đọc được tất cả , ta phải điên đầu . Phải lọc lại , và giữ lấy phần tinh hoa . Đọc sách mà tin ở sách 1 cách mù quáng , thà đừng đọc sách còn hơn .
Dịch là tương đối luận : Âm , tự nó đâu phải luôn luôn xấu ; Dương , tự nó đâu phải luôn luôn tốt . Tốt xấu , kì thực đều do 2 chữ Thời và Vị mà ra . Cũng như không có cái gì gọi là Thiện , cái gì gọi là Ác 1 cách tuyệt đối . Tuỳ công dụng của nó , trật tự vũ trụ nhân sinh mà có chia phần Thiện Ác . Phần căn bản của Dịch là ở điểm này , mà cũng là điểm cực kì quan trọng , vì nó đánh tan được cái thành kiến của nhị nguyên luận chấp Có hoặc chấp Không , nói theo danh từ nhà Phật .
Thời là thời gian , Vị là không gian . Âm tuy có tính cách thấp kém , tiêu cực . Còn Dương có tính cách cao quí , tích cực , nhưng trong 6 hào tượng trưng 6 thời , nếu được Đắc Vị , Đương Vị thí tốt , mà Thất Vị hay Bất Đương Vị thì xấu . Toàn 64 quẻ , thánh nhân luận về sự Kiết Hung đều căn cứ vào 2 chữ Thới và Vị mà định tốt xấu . Cũng không có cái gì tự nó luôn luôn tốt .
Nói về Cương Nhu , mỗi thứ đều có chỗ Thiện và Bất Thiện của nó ; lúc đương phải dùng Cương , thì lấy Cương làm Thiện . Lúc cần phải dùng Nhu , thì lấy Nhu làm Thiện . Chỉ có Trung và Chánh mới không có chỗ bất thiện mà thôi .
( Cương nhu các hữu thiện , bất thiện .Thời đương dùng cương , tắc dĩ cương vi thiện dã . Thời đương dụng nhu , tắc dĩ nhu vi thiện dã . Duy trung dữ chánh tắc vô hữu bất thiện dã )
Nhưng cái gọi là Chánh không như cái thiện của chữ trung , vì được Chánh chưa ắt là được Trung ; mà được Trung thì không bao giờ không Chánh . Tỉ như 6 hào đều được đắc vị vị tất đều là tốt cả ; Đắc vị còn cần phải đắc Trung nữa . Đạo lí trong thiên hạ tuy có nhiều việc , nếu cho là Chánh thì vẫn Chánh , nhưng lại vì hoặc bất cập , hoặc thái quá mà thành ra Bất Trung . Bởi Bất Trung nên trở thành Bất Chánh .
Ở quẻ Kiền bàn đến cái đức của người quân tử gọi là Long Đức có viết : Long đức nhi chánh trung giả dã . Nghĩa là đức của người quân tử ( ví như con rồng ) nếu được đắc trung mới được gọi là Long Đức . Vì vậy , Dịch thường để chung 2 chữ Chánh Trung .
Vấn đề Âm Dương hay Thiện Ác của Dịch là 1 vấn đề vô cùng quan trọng . Thiện Đức mà dùng sai không đúng thời đúng chỗ , không còn Thiện nữa . Hơn nữa Thiện hay Ác như Dương hay Âm vẫn cần thiết cho trật tự vũ trụ , đứng theo đạo trời ( thiên đạo ) Thiện Ác Giai Thiên Lí . Như trình Minh đạo đã nói : Âm Dương đồng đẳng và bình đẳng . Bọn Hủ Nho không làm gì hiểu nổi . Nhà Đạo học Ấn Độ Aurobindo Ghose , trong quyển Héraclite có viết : Trong trật tự chung của Đạo , mỗi sự vật đều theo cương vị mình trong guồng máy chung mà hành động , tuỳ cương vị và để gìn giữ quân bình , sự gì việc gì xẩy ra đều tốt , hợp lí , và đẹp đẽ cả chính ngay trong công việc nó thi hành những mạng lệnh tự nhiên của Tạo Hoá .
Ngay như cuộc thế chiến ngày nay , theo người này thì cho là cuộc tàn bạo , dã man , khả ố .Thế mà đối với người khác thì đây biết đâu là 1 việc hay vì nó mở đầu chó sự canh tân đầy triển vọng cho sự bế tắc của xã hội ngày nay . Nhưng đó cũng chỉ là quan niệm tương đối nhị nguyên đang đứng giữa cái Ác và cái Thiện để lựa chọn 1 bên nào . Đối với Thiên lí mà nhìn về mặt tổng quát của Thiên cơ , mỗi 1 hành động nào bất cứ Thiện hay Ác đều là lẽ trời cả , nên đều được xem là tốt đẹp và hợp lí . Dĩ hiên là đối với trời ( Đạo ) , chứ không phải đối với trí óc con người . Cũng như Tất cả mọi cuộc đại biến tự nhiên đều là những cần thiết của Tạo Hoá để giữ quân bình .
Có hiểu được cái tương đối luận đặc biệt này của Dịch , ta mới có thể vào được 1 cách dễ dàng hơn thuyết tương đối độc đáo của Trang Châu ,1 thứ tương đối luận dùng để đi thẳng vào tuyệt đối luận , chứ không phải thứ tượng đối luận của nhị nguyên .
&&&
Chú thích : Những trận cuống phong vũ bão phải chăng là những động biến của khí nóng lạnh ( Li Khảm, Dương Âm ) trên không trung để lập lại quân bình 1 cách quá mạnh bạo . Các cuộc chiến tranh đẫm máu có tánh cách Cách Mạng cũng 1 thế .
Vì vậy , có người gọi là Siêu Tương Đối luận .
&&&
Thứ Ba, 2 tháng 10, 2007
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét