Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.1

Dịch Học Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Chương 3 . 1
DỊCH LÀ GÌ ?
Có kẻ cho rằng nguyên tự là hội ý 2 chữ Nhật và Nguyệt , để chỉ sự luân chuyển biến hóa của Âm Dương . Đó là theo Thuyết Văn của Hứa Thận . Nhưng cũng có thuyết cho rằng Dịch là chữ tượng hình con tích dịch tức là con kì nhông. Con kì nhông là 1 loài thú sống trên cây , luôn luôn biến đổi màu sắc theo tời gian và không gian . Đó là tượng trưng chữ Thời và chữ Biến , căn bản của Kinh Dịch . Biến đây là biến theo thời gian và không gian .
Sách Luận Ngữ có chép : Tử tại xuyên thượng , viết : Thệ giả như tư phù , bất xả trú dạ . ( Phu Tử đứng trên sông nhìn nước chảy than : Cứ chảy mãi như thế này ư , ngày đêm không bao giờ ngừng )
Theo Trịnh Huyền Dịch gồm có 3 nghĩa : Biến dịch ,Bất dịch và giản dị .
A) BIẾN DỊCH :
Trong Hệ Từ có viết : Dịch , cùng tắc biến , biến tắc thông , thông tắc cửu . ( Theo Dịch , thì có cùng mới có biến , có biến mới có thông , có thông mới lâu bền ) . Chữ Cùng do chữ Thân , và chữ Cung tức là thân bị đè nén phải co rút lại như bị dồn vào 1 cái hang ( huyệt ) . Đó là sự vật bị dồn về tuyệt lộ . Nhưng sự vật có bị dồn về “ cùng đường “ tất phải tìm con đường đi ra ( thông ). Theo Dịch , điều đáng lo nhất là chữ Cùng .
Hệ từ thượng có câu : nhất hạp nhất tịch chi vị biến , vãng lai bất cùng chi vị thông . ( 1 đóng 1 mở , gọi là biến , qua rồi lại , lại rồi qua , và qua lại không cùng , gọi là thông ).
Ở quẻ Kiền cũng có viết : Kháng long hữu hối , cùng chi tai dã . Đó là cái hoạ của những sự vật khi bị đưa vào chỗ cùng . Vì vậy Lão Tử khuyên ta : Khứ thậm , khứ xa , khứ thái . Cái thái quá sẽ biến cái gì ta muốn thành cái nghịch lại với cái điếu ta muốn .
Ở Hệ Tứ hạ , chương 8 có câu : Vi đạo dã , lũ thiên biến động bất cư , chu lưu lục hư , thượng hạ vô thường ; cương nhu tương dịch , bất khả vi điển yếu , duy biến sở thích .
Đạo của Dịch là biến mãi , biến động không ở yên nơi nào cả , chu lưu khắp , lên xuống không ngừng , cứng mềm thay đổi lẫn nhau ,cho nên không thể lấy cái gì làm chủ yếu điển hình ( cố định ) mà chỉ biến để thích ứng hay thích nghi mà thôi .
Câu văn trên dây đã định nghĩa được 1 cách rõ ràng về huyền nghĩa của Dịch . Lũ Thiên là biến thiên dồn dập mau lẹ như sóng cồn . Cương Nhu Tương Dịch , là biến dịch không những tự sinh , tự hoá Âm hay Dương riêng ra , mà là 1 sự tương sinh tương hoá do sự ảnh hưởng lẫn nhau của Âm và Dương . ( Chữ cương và nhu , là ám chỉ Dương và Âm ) . Nói tự sinh , rồi lại nói tương sinh , phải chăng là nói mâu thuẫn .
Đúng , mâu thuẫn là định luật bất di bất dịch của Dịch Đạo . Phải nói Dịch là tự sinh mà cũng là tương sinh . Nghĩa là tương sinh , nhưng khi sinh thì gồm cả tự sinh . Đoá hoa hồng nhờ có những trợ duyên bên ngoài mà nở ( tương sinh ) nhưng khi nở thì nở hoa hường chứ không nở thứ hoa nào khác ( tự sinh ) .
Câu : Vi đạo dã … duy biến sở thích . Có 2 phần : phần đầu nói về tính cách biến dịch ; phần sau nói về cách thức của sự biến dịch . Sự bất thường của Âm Dương phản phục biến thiên , nên không thể giữ mãi 1 hình thức nào dùng làm điển yếu : bất khả vi điển yếu .

&&&

Chú thích : Lên xuống bất thường là do luật Phản Phục .
Lấy 2 quẻ Bác và Phục , ta nhận thấy rõ lẽ ấy : Dương ở hào cao vót ( thượng cửu ) , nhưng là đã dọn đường đi xuống ở quẻ Phục 1 cách bất thường ( sơ hào ) . Dương , tuy ở sơ hào quẻ Phục , nhưng là thứ Thiếu Dương , sức cường tráng bắt đầu tiến lên và làm mòn lần lực lượng của ngũ Âm . Thượng , không hẳn là cao , Hạ , không hẳn là thấp . Cho nên mới gọi : Thượng Hạ vô thường . Cũng có khi ,Thượng không thành Thượng , Hạ không thành Hạ , mà Thượng lại thành Hạ , Hạ lại thành Thượng , gọi là Âm Dương phản trắc .

&&&

Cũng vì Bất khả vi điển yếu , nên Thiền mới đề xướng : bất lập văn tự . nhà Lão đề xướng : bất ngôn chi giáo . Danh từ thuộc về tịnh giới ,Dịch thuộc về động giới , lại động biến 2 chiều xuôi ngược vô thường . Và cũng vì thế mà danh từ dùng trong kinh Dịch , cũng như trong các kinh sách Đạo học đều là cưỡng dụng cho nên phải hiểu đến chỗ ; ý tại ngôn ngoại , thư bất tận ngôn , ngôn bất tận ý . Phải biết : Tinh nghĩa nhập thần để mà : Dĩ trí đạo dã . Nghĩa là phải biết Thân nhi hoá chi , văn tự trong giời nhị nguyên tịnh để tìm hiểu cái động không ngừng của sự vật .
Tóm lại ,đạo của Dịch là Biến , cái gì ở 1 chỗ cũng biến , cái gì chu lưu cũng biến , cái gì vô thường cũng biến , cái gì đối lẫn nhau cũng biến . Cái gì cũng biến , thì không có cái gì có thể dùng làm điển yếu cả .
Duy biến sở thích , là biến để cho : nội ngoại tương ứng với nhau . Dịch hệ từ Hạ ( chương 4 ) mới bảo : Đức bạc nhi vị tôn , trí tiểu nhi mưu đại , lực tiểu nhi nhiệm trọng , tiễn bất cập dĩ .
Đức mỏng mà ngôi cao , trí nhỏ mà mưu việc lớn , sức yếu mà gánh vác việc nặng , khó mà thành công . Lại còn nguy đến bản thân ,luôn cho cả xã hội chung quanh là khác .
Cách mạng bên ngoài ,vì vậy , cần phải đi đôi với cuộc cách mạng bên trong , cả 2 cuộc cách mạng phải tương ứng , tương thích , bằng không , cuộc cách mạng bên ngoài chỉ có cái hình thức hữu danh vô thực , không đủ sức hoá được bên trong , cũng như làm những cuộc cách mạng bên trong mà không có những cuộc cách mạng bên ngoài làm trợ duyên cũng khó mà thành công . Anh hùng tạo thời thế , đồng thời thời thế tạo anh hùng ,phải luôn bổ túc cho nhau . Đây là cái luật chung cho tất cả , bất cứ ở hình nhi hạ hay hình nhi thượng , nới đạo tu thân hay xử thế .Tương dịch mà cũng tự dịch .
Câu : Cương nhu tương dịch , gồm nắm hết phần trọng yếu của nghĩa thứ 1 của Dịch rồi .

&&&&&&&

LẼ BIẾN HOÁ :
Kinh Dịch nói biến , mà cũng nói hoá . Có khi lại nói chung : biến hoá , như nói : Cương nhu tương thôi , nhi sinh biến hoá . ( Mềm cứng ma sát nhau mà sinh biến hoá ) . Hoặc , tại thiên thành tượng , tại địa thành hình , biến hoá kiến dã . ( Ở trời là tượng , ở đất là hình , trông tượng và hình ấy mà ta thấy được sự biến hoá vậy )
Nhân có biến hoá mới có sự thay cũ đổi mới ( cách mạng ) . Hệ từ thượng chương 4 có nói : Nhât tân chi vị thịnh đức , sinh sinh chi vị dịch . Ngày 1 mới là đức thịnh , sinh rồi lại sinh gọi là Dịch .
Đức thịnh là Đức đến độ cực thịnh mới có thể biến đổi , biến cái cũ thành cái mới ( mà Lão Tử bảo : Tệ tắc tân : cũ ắt biến thành mới ) . Chữ sinh sinh là cái đạo cực động của Trời Đất . Hai chữ sinh sinh đã bao hàm cái ý tử tử , vì có sinh là có tử , mà có tử là đã có sinh . Phải có cái tử của cái sinh trước , mới có thể có được cái sinh sau , và như thế đến vô cùng . . Phải có tử mới có sinh ,cho nên tử tức là biến , nghĩa là hoá . Người sau dùng chữ hoá để chỉ sự chết .
Chữ sinh đây là nói về cái ý Nhất dương sinh của quẻ Phục đi tiếp theo quẻ Bác . Và như thế , 2 chữ sinh sinh đã diễn đạt rõ rệt 2 chữ biến hoá bất tận rồi của Dịch đạo . Theo Dịch , vì vậy không có chỗ nào dành cho cái chết cả . Hay nói cách khác , Dịch không tin có cái chết tuyệt đối , cái chết vĩnh viễn . Cái mà ta gọi là chết , chỉ là những cái chết bên ngoài , thay hình đổi xác , như cội cây qua thu là rụng mà không hề hấn gì đến thân cây , sự sống của các lá rụng trở về thân cây đợi qua xuân khác thì đâm chồi nẩy lộc . Cái nhìn của Dịch là cái nhìn tổng quát , chỉ thấy sự gì vật gì như là 1 Thái cực .Có 1 cái sống luôn luôn trường tồn mà Lão Tử gọi Tử nhi bất vong cho nên người ta chết ,là bỏ cái tiểu ngã mà trở về Đại ngã . Nghĩa là trong hư không mà ra , và nơi hư không mà trở về .
Về chữ Đức trên đây , không nên hiểu theo nghĩa thông thường của luân lí , mà phải hiểu nó là 1 danh từ siêu hình ám chỉ tất cả những hiện tượng của cái Lí Thái Cực . Đức đây gồm cả Âm Dương , Thiện Ác đồng 1 nghĩa với chử Đức mà Lão Tử dùng trong Đạo Đức Kinh .
Hai chữ Nhật Tân chứng minh Dịch là 1 thứ tư tưởng Động , không chấp nhận có sự im lìm . Bởi vậy , danh từ dùng để chỉ định 1 sự vật hữu hạn không thể còn dùng được nữa để nói lên sự biến hoá vô tận của sự sự vật vật trên đời . Dịch Kinh bởi thế mới có câu : Thư bất tận ngôn , ngôn bất tận ý .( Hệ từ thượng , chương 11 ) .
Đọc Dịch không nên quá chú ý đến Từ , mà nên lưu ý trước nhất đến Tượng của nó . Tượng là cái Ý gợi ra do Tượng mà có . Trình Di trong bài tựa quyển Chu Dịch có viết : Tiên Nho bỏ Ý để truyền lời . kẻ hậu học thì đọc lời mà quên Ý : Dịch , vì thế đã thất truyền từ lâu .
Trong Dịch Tuyết Cương Lĩnh cũng nói : Phục Hi vạch 8 quẻ , chỉ có mấy nét , bao quát hết lẽ muôn vật . Kẻ học Dịch mà hiểu được ở Lời thì nông , hiểu được ở Tượng thì sâu . ( Chu Hi )
Giớ đây , xin trở về vấn đề Biến và Hoá . Sự Biến Hoá làm cho thay đổi cả tính chất , làm cho hình hoá khí , khí hoá hình … và cứ thế lien miên bất tuyệt .
Trang Tử , trong thiên Đại Tông Sư cũng chủ trương như Dịch rằng : Vạn Hoá nhi vị Thuỷ , hữu cực dã . ( Muôn biến vạn biến mà chưa từng bao giờ cùng ) . Ông lại nói : Vật chi sinh dã , nhược sậu nhược trì , vô động nhi bất biến , vô thời nhi bất di .
Vật sinh ra , biến đổi thình lình , hoặc mau hoặc chậm , không có 1 cái động nào mà không có biến , không 1 lúc nào là không đổi dời . Chủ trương này của Trang cùng với của Dịch là 1 . Liệt Tử cũng nói : Sinh giả bất năng bất sinh , hoá giả bất năng bất hoá , cố thường sinh thường hoá . Thường sinh thường hoá giả , vô thời bất sinh , vô thời bất hoá .
Sinh là không thể không sinh , hoá là không thể không hoá cho nên thường sinh thường hoá . Thường sinh thường hoá là không lúc nào không sinh , không lúc nào không hoá . Đó là cái lẽ : bất đắc bất nhiên ( phải vậy , ví không phải vậy , không đặng ) .
Sự sinh sinh hoá hoá , đâu phải chỉ xảy ra trong sự vật , mà ngay nơi bản thân , nơi nội tâm ta đây , luật sinh sinh hoá hoá , vô thường cũng nhận thấy được rất rõ ràng 1 cách công khai hay tiềm ẩn .
Trong sách Trang Tử , Huệ Thi cũng nói : Nhật phương trung phương nghê , vật phương sinh phương tử . ( Bóng mặt trời chưa đứng là đã chênh , mọi vật đang sống là đang chết ).
Bình về cái lẽ : phương sinh phương tử , Quách Tượng bảo : Nói về cái lực mà không có lực , chả còn có cái gì mạnh bằng cái lực của sự biến hoá … Trời đất không lúc nào là không biến đổi . Thế sự đã đổi mới , mà cứ tưởng là còn cũ . Chiếc thuyền từng buổi từng đổi khác mà cứ tưởng nó vẫn như xưa . Trái núi từng ngáy từng đồi khác , mà cứ xem nó vẫn trơ trơ như trước . Hiện tay đang khoác tay mà lòng đã thay đổi ! Đều là ở những nơi sâu kín nhất của tâm hồn .
Cái ta trước đây không còn là cái ta hiện tại , cả cái ta và cái hiện tại đều qua , hà có thể còn giữ mãi được cái cũ mà được đâu ! Vậy mà thế nhân lại đâu biết được điều đó , cứ lại bảo rằng cái hôm nay gặp gỡ có thể buộc lại mà giữ mãi không mất , như thế há chẳng phải là ngu muội lắm hay sao !
Lời bình luận trên đây thật là xác đáng .
Khoa học nguyên tử ngày nay của Tây Phương cũng xác nhận cái thuyết : Hình hoá khí , Khí hoá hình , là đúng khi các nhà khoa học nguyên tử tuyên bố : vật chất là khí đọng lại mà thành hình , khí là vật chất tan ra mà thành khí . Hay nói 1 cách khác : Người ta có thể nói rằng khí lực và vật chất là 1 , hoặc là 2 bộ mặt của 1 thực thể
Tóm lại , sự sinh hoá của sự vật có chậm có lẹ , có khi mau lẹ đến đỗi trong 1 niệm của hiện tại là đã đi vào dĩ vãng rồi …lẹ hơn cái tia chớp trên nền trời tối mịt . Quan niệm biến dịch và sinh hoá này … đã ảnh hưởng rất sâu xa các nhà tư tưởng Trung Hoa về sau . Các triết gia đời Tống đến đầu đời nhà Thanh đều đã chịu ảnh hưởng cái nguyên lí biến dịch này của Dịch .

&&&&&&&

Không có nhận xét nào: