DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN
CHUONG 3.3
BẤT DỊCH :
Dịch , lại cũng có nghĩa thứ 2 là bất dịch hay bất biến .
Là tại sao ? Là vì sự biến hoá ở mọi vật , bao giờ cũng diễn biến trong vòng trật tự , theo 1 quy luật bất di bất dịch .
Cái luật bất di bất dịch ấy , Dịch gọi là luật Thường nghĩa là Thường trụ bất biến .
Dịch truyện có câu : Động Tịnh hữu thường .( Động hay tịnh cũng đều bị cái luật thường chi phối ) .
Lại cũng nói : Ngôn thiên hạ chi chí động , nhi bất khả loạn dã . Tất cả sự vật dưới trời đều rất động ( nhưng nhờ có luật Thường chi phối mà sự động ấy không rối loạn . ĐạoThường tức là Đạo Trung , cái Đạo quân bình . Chính vì theo luật Thường ( bất biến ) ấy mà vũ trụ vạn vật biến hoá .
Cái đạoThường hằng bất biến ấy chính là cái căn bản của vũ trụ vạn vật , cũng gọi là Hoàng Cực . Cho nên mới nói : Dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hỉ . Cái lẽ biến hóa dưới trời thật là giản dị . ( Hệ từ thượng ) .
Ở hệ từ hạ ( chương 4 ) có nói : (Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ ) Tất cả sự vật dưới trời đều cùng về 1 mối , nhưng mỗi vật theo con đường của mình . Đồng qui tức là trở về nguồn gốc là Thái cực , nơi đó gồm cả Âm Dương lưỡng tính , tức là chỗ mà người Tây Phương gọi Nhất nguyên lưỡng tính động .
Cái đó , cái mà mọi sự vật dưới trời đều phải trở về đồng qui . Lão học gọi là Đắc nhất . Luật Thường ấy tuy thấy là không làm gì cả , mà thực sự nó chi phối tất cả , nó có mặt ở mọi cuộc biến hóa trong trời đất , nó bắt buộc không cho sự gì vật gì đi đến thái quá hay bất cập , nghĩa là hễ ; dư thì nó bớt , thiếu thì nó thêm . ( Bổ bất túc , tổn hữu dư ). Nó là luật quân bình . Nó vô hình , nó vô vi nhưng mà nó : Vô vi nhi vô bất vi . Thấy thì dường như không làm gì cả , mà không gì không có cái bàn tay huyền bí của nó xen vào . Cho nên mới nói : Huyền chi hựu huyền , chúng diệu chi môn .
Theo Triết học Tây phương từ Descartes đến nay , chủ luận của họ chính là thiên về Nhị nguyên luận , chia hẳn Trời và Người , Tâm và Vật thành 2 vật độc lập và đối lập , không thể dung nhau . Triết học Trung Hoa lại chủ trương khác : họ cho Trời và Người hoà hợp nhau làm 1 khối ( thiên nhân tương hợp ) và lấy sự thống nhất tâm vật làm tông chỉ , nghĩa là Dịch là Nhất Nguyên Luận hay Nhất Nguyên Lưỡng Tính Luận . Nhất Nguyên đây , tức là chỗ Bất di bất dịch vậy .
Trong : Trung Quốc Ngũ thiên niên sử ,Trương Kí Quân có phê bình về Chu Dịch rất xác đáng như sau : ( Dịch chi vi thư , quảng đại tất bị , vô sở bất bao nhi ngữ kì yếu qui , tắc vi minh thiên nhân hợp nhất chi đạo. )
Sách Dịch thật là bao quát mênh mông , nhưng đại khái cốt xiển minh chỉ có 1 lẽ Thiên Nhân Hợp Nhất mà thôi . Trong thoán từ quẻ Hằng có viết : (Thiên địa chi Đạo hằng cửu nhi bất dĩ dã … quan kì sở hằng nhi thiên địa vạn vật chi tình , khả kiến hỉ …) Đạo của trời đất là thường hằng vĩnh cửu , không bao giờ dứt … Xem cái thướng hằng ấy mà thấy rõ được cái tình trong trời đất muôn loài .
Chữ Hằng đây có nghĩa là cái lẽ : luôn luôn như vậy , không thay đổi . Cho nên người : ( quân tử dĩ lập bất dịch phương ) , người quân tử lấy đó làm chỗ đứng không thay đổi , tức là lấy chỗ bất biến ấy làm đạo Thường để mà ứng với mọi sự biến đổi trên đời .
Các triết gia Trung Quồc về sau đều công nhận cái luật Thường Hằng Bất Biến ấy , như Vương Bật trong Dịch lược lệ : vật nhiều đến thế , vậy mà vẫn đều được tồn tại , là vì cái làm chủ chốt của nó phải rất là nhất trì ; di động đến thế , vậy mà đều được chuyển vần , ắt là vì có cái nguyên thuỷ của nó không phải là 2 . Vật không lầm lẫn ( mà theo 1 trật tự ,1 qui luật nào đó ) . Ắt là do cái Lí của nó ,cho nên tuy phồn tạp mà vẫn không rối loạn , không lầm lẫn .
Trương Hoành Cử ( Tống ) cũng viết : Cái khí của Trời Đất Âm Dương biến hoá , co duỗi , tụ tán không biết đâu là chừng ; khi công , khi thủ , trăm đường khác nhau , nhưng cái Lí của nó bao giờ cũng thuận theo 1 đường , nghĩa là cùng theo 1 qui luật nhất định .
Cái luật ấy , luật Thường chi phối tất cả mọi sự mọi vật , nên gọi là Bất Dịch .
Trình Y Xuyên và Chu Hi của phài Dịch Truyện xem trọng cái Thường hơn cái Biến , cho cái Thường ( Bất Dịch ) mà họ gọi là Lí chẳng những là cái thứ tự trong cái Biến , mà còn là căn bản của cái Biến , làm chủ tể của cái Biến .
Chỉ có Trương Hoành Cừ thì cho rằng Biến là căn bản , quan trọng hơn Thường , nhưng Biền thì biền mà vẫn có điều lí , có trật tự theo 1 cái luật nhất định bất di bất dịch , là luật Thường . Như vậy vấn đề đã đặt sai : Biến có trước ,Thường nhân Biến mà có sau để điều lí , thì ra dù có trước , dù có sau gì cũng đều phải biến theo luật Thường cả .
Trang Tử cũng bảo : sự biến hoá không theo phương hướng nào nhất định cả , tiến hay thối , nhưng lại biến hoá theo 1 cái Cơ và kết luận : vạn vật đều ra nơi Cơ và vào nơi Cơ . Cái mà Trang gọi là Cơ , chính là cái Thường đó .
&&&
GIẢN DỊ :
Dịch cũng có nghĩa là Dị ( dị giản ) không phức tạp . Đó là cái nghĩa thứ 3 của Dịch .
Bất Dịch và Dị giản tuy cùng 1 ý , nhưng có chỗ phân biệt : Bất Dịch là nói về nguyên lí , Dị Giản nói về chỗ ứng dụng của Dịch Lí .
Nếu biết rõ được cái Lí bất Dịch của Dịch , thì cũng có thể hiểu được cái dụng giản dị của nó .
Trong hệ từ hạ chương 8 có viết : Dịch chi vi thư dã , nguyên thuỷ yếu chung dĩ vi chất dã . Dịch , là sách lấy sự nguyên thuỷ yếu chung làm bản chất . Nguyên thuỷ yếu chung , tức là Suy cầu Nguyên nhân chính gốc ( thái cực ) để mà suy tầm đến kết quả cuối cùng . Cũng như trong Đại Học nói : Vật hữu bổn mạt , sự hữu chung thuỷ , tri sở tiên hậu , tắc cận Đạo hĩ .
Vật có gốc ngọn , sự có sau trước , biết được đến chỗ trước sau của sự vật , đó là đã gần với Đạo rồi vậy . Câu văn này , có thể lấy 4 chữ : Nguyên thuỷ yếu chung mà giải thích .
&&&&
Với cái nghĩa Dịch là Dị , thì Dịch không còn là cái Đạo đi ra như với cái nghĩa Dịch là biến nữa , nghĩa là đi từ chỗ Nhất bản tán vạn thù .Từ Thái cực qua Lưỡng nghi , từ Lưỡng nghi qua Tứ tượng đến Vạn tượng phồn tạp nữa ; trái lại Dịch là cái đạo trở về , từ Vạn tượng trở về ngôi Thái nhất . Cũng chính là cái đạo trở về theo chủ trương của Lão Tử : ( Đạo viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản ) . Lớn là tràn khắp , tràn khắp là đi ra xa , đi ra xa là trở về . Chữ Đại ở đây là chữ Thái hay Thái Nhất , là cái 1 nguyên thuỷ . Cái 1 ấy biến , tức là đi xa ,và đi ra xa …rồi lại trở về . Chữ Phản này là Phản Kì Chân , trở về cái ngôi 1 .
Bởi vậy Dịch đạo gồm cả cái Đạo đi ra ( biến dịch ) và cái Đạo đi về ( bất dịch ) và ( dị giản ) . Tức là Đạo trở về ngôi Thái cực của mình . Hay nói theo danh từ của Đạo gia , thì Đạo ngoại là đi từ ngôi Tiên thiên qua hậu thiên , còn Đạo nội là đi từ ngôi Hậu thiên trở về ngôi Tiên thiên . Dịch đạo vì vậy cũng có thể gọi là đạo Nội Thánh Ngoại Vương ( tu thân tề gia , trị quốc , bình thiên hạ )
Trở về chỗ Dị giản ấy , Dịch gọi là Cơ ,1 lẽ huyền vi của Tạo hoá .
Trong hệ từ thượng có viết : Tri biến hóa chi đạo giả , kì tri Thần chi sở vi hồ . ( Biết được cái đạo của sự biến hoá phải chăng là biết được cái chỗ hành động của Thần . Chữ Thần đây cũng ám chỉ cái đạo của Nguyên Dương , hay là Nguyên Thần . Nguồn gốc Động của vạn sự vạn vật lúc sơ khởi ) . Dịch gọi là Cơ , tượng trưng ở sơ hào quẻ Phục . Cho nên mới nói : Phù Dịch , thánh nhân chi sở cực thâm nhi nghiên cơ dã .
Dịch , là cái mà bậc Thánh nhân đã nghiên cứu cái Cơ đến chỗ cực thâm . Bởi vậy mới có thể thông suốt đến cái chí của thiên hạ . Chỉ có cái Cơ đó mới thành tựu được việc của thiên hạ .Và chỉ đắc được cái Thần , cái Cơ đó mà việc làm tuy không vội mà mau xong , không đi mà đến chốn .
( Duy Cơ dã ,cố năng thành thiên hạ chi vụ , duy Thần dã , cố bất năng tật nhi tốc , bất năng hành nhi chí ).
&&&
(Âm Dương bất trắc vị chi thần ). Chữ bất trắc đây có nghĩa là lưỡng nhất và lưỡng tại , nghĩa là luôn luôn có mặt trong mỗi sự vật , không bao giờ lìa nhau . Cái này ẩn trong cái kia ,cái kia ẩn trong cái này .( Âm trung hữu Dương , Dương trung hữu Âm chi nghĩa ).
&&&
Ở hệ từ hạ chương 4 cũng có viết : Tri Cơ , kì Thần hồ ! Cơ giả , động chi vi , cát chi vi tiên kiến giả dã . Quân tử kiến Cơ nhi tác , bất sỉ chung nhật . ( Biết được Cơ phải là Thần chăng ?... Cơ là cái chỗ động rất nhỏ , là cái điềm lành mà ta thấy trước ; trước khi nó thành hình ; bậc quân tử thấy cái Cơ vừa máy động là tức khắc hành động ngay , không chờ qua hết ngày ).
Dịch là cái học tri Cơ, cùng lí tận tánh , trí dĩ tàng vãng , thần dĩ tri lai . Dịch rất chú trọng đến việc tri lai , và lấy đó làm đề chính yếu – hoặc bằng phép : cùng lí tận tánh - nghĩa là cùng lí ư sự vật , nghiên Cơ ư tâm ý .
Quân tử quý hồ tri Cơ , nghĩa là cầu biết cho đến mức Cơ vi , vì có biết được Cơ vi mới có thể biết được những điều sắp đến . Thấu được Nhân , là biết được cái quả của nó , nhưng phải biết được cái Nhân cùng tột của nó mới được . Ở đây ta thấy Dịch học là cái học tri lai mà người ta thường cho sách Dịch là sách bói .
&&&
Cơ , là ám chỉ cái điểm Dương nằm trong Âm , như cái mầm , tức là hào Dương nằm dưới ( sơ hào ) của quẻ Phục . Tịnh cực Động sinh . Cái căn bản của Vũ Trụ hiện tướng là Âm , nên gọi là Mẫu ( Quy Tàng Dịch , lấy quẻ Thuần Khôn làm căn bản Vũ Trụ ) sự sinh hoá bắt đầu bằng quẻ Phục . Chỗ sơ hào, nhất Dương sinh ấy , gọi là Cơ , cũng gọi là Cơ Vi , nghĩa là rất nhỏ . Tuy nhỏ mà cực lớn , vì nó là cái mầm của các sự sinh hoá sau này . Đó là thời Tiên thiên Âm hàm Dương mà Lão Tử bảo : vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương .
&&&
Khổng Tử về sau gọi cái công phu Tri Cơ này là : mặc nhi thức chi – ( lặng lẽ mà biết ) , công phu học hỏi của Thánh nhân là phải biết “ dò đến chỗ sâu kín nhất của tâm hồn , tìm chỗ u ẩn của nó , cũng như thả câu xuống vực sâu để mà vượt đến miền sâu thẳm nhất của tâm hồn , hầu tiếp xúc được với cái nguồn gốc ấy .
Cùng lí ư sự vật , thuỷ sinh chi xứ ,
Nghiên Cơ ư tâm ý ,sơ động chi thời .
Công phu nghiên Cơ là cần yếu nhất trong công việc học tập , nên chi học giả không nên dừng nơi văn tự , cái mà Trang Tử gọi là : cặn bã của Thánh nhân , và Dịch khuyên ta , trong khi nghiên cứu bất kì vấn đề nào , học giả phải biết thoát li văn tự hầu có thể : tinh nghĩa nhập thần .
Cho nên học Dịch , nếu chẳng đi vào chốn sâu thẳm nhất của cõi lòng , nghiền ngẫm xét nét cái lí của sự vật đến nơi đến chốn thì chưa có thể nói đến Dịch học . ( Dịch chi vi học , phi tiềm tâm chi thâm , ngoạn lí chi thục giả , vị Dịch ngôn dã )
Phải rửa sạch con tâm để đi sâu vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn , mà cũng chính là chỗ mà nhà Phật gọi “ kiến tánh “ và nhà lão gọi là “ kiến tố “.
Rửa sạch con tâm là bôi bỏ những thành kiến của xã hội đã tạo thành lâu ngày và đã che lấp con Tâm của mình . Ngày nay , khoa Tâm phân học của Tây phương gọi là khoa Tâm lí về bề sâu đã bắt đầu đi sâu vào Tiềm thức và Vô thức . Có lẽ về sau này khoa Tâm phân học của Tây phương sẽ giao cảm và gặp nhau được với Đông phương ở kinh Dịch .
Tóm lại , học Dịch là học cái phép Nghiên Cơ thám nguyên . Học giả Trung Hoa từ xưa đến nay không 1 ai là không căn cứ vào đó , nghĩa là không lấy đó làm cái tâm điểm tối trọng cho phép tu dưỡng ( tu tâm dưỡng tánh ) cũng như lấy đó làm phép tu học , nghiên cứu để đi đến chỗ : tinh nghĩa nhập thần , duy tinh duy nhất .
Cái Cơ là cái động cơ ở trong lòng người , tức là chỗ : Tưởng niệm sơ phát , cần phải gìn giữ cái chỗ : vị phát chi trung ; hầu có thể ngừa tà tưởng , không cho nó huân sinh huân trưởng nơi tiềm thức . Đó là công việc ngừa loạn , và trị loạn ngay lúc nó vừa manh nha trong lòng người và sự vật .
Câu phòng loạn hơn trị loạn của Đông phương cũng như câu : trị , là phòng ngừa , của khoa chính trị Tây phương đều cùng 1 nghĩa , cùng lí tận tánh của Dịch học .
Cùng lí và nghiên Cơ , là 2 việc làm bổ túc cho nhau , dùng làm 1 biểu 1 lí ( 1 ngoài 1 trong ) cho nhau , tức là chỗ mà Dịch gọi là : thể dụng kiêm cai , ( gồm cả cái thể và cái dụng ) và tri hành hợp nhất , mà về sau Vương Dương Minh lấy đó lập thuyết cho cái sở học của ông .
Nghiên Cơ và Cùng Lí hợp nhất , đó cũng là 2 thái độ hợp nhất của triết học đạo đức và khoa học thực nghiệm , nội ngoại tương ứng của triết học cổ kim cả Đông lẫn Tây . Hay nói 1 cách khác : nghiên Cơ là Tâm học , Đạo học , còn Cùng Lí là Lí học , Khoa học . Một bên thì : tận kì tánh ; 1 bên thì : cùng kì lí . Đó là tất cả nội dung lực hành của Dịch học , không thiên về bên nào cả , mà gồm nắm trong cái lí Thái cực ( nhất nguyên ) , Bất thiên bất ỷ .
Tất cả tinh hoa của Dịch học nằm gọn trong 3 nguyên tắc tối cao đã trình bày trên đây , khó thể giải bày cặn kẽ .Ta chỉ có thể ý hội mà thôi , vì Dịch có đến 3 nghĩa , biến hoá 2 chiều cuôi nghịch , nhưng tựu trung chỉ có 1 . Có lĩnh hội được cái lí ấy mới có thể hiểu được cái huyền nghĩa của Dịch mà thôi .
Thư bất tận ngôn
Ngôn bất tận ý .
Tóm lại : Dịch gồm cả cái Đạo đi ra và đi về , tượng trưng trong cái đồ hình dấu ngã .
Dịch là Đạo đi ra , là đạo biến ( theo nghĩa thừ nhất ) . Dịch là đạo đi về ( phản giả , Đạo chi động ) ; là Đạo bất biến ( theo nghĩa thứ 2 ) ( phản kì chân , phục kì bản )
Dịch Đạo là 1 ra , 1 vào ( 1 mở ,1 đóng ) như 1 hô 1 hấp . Cho nên , Dịch là nơi xuất phát của 2 hệ thống Triết học Trung Hoa : Khổng học và Lão học . Tuy chống nhau mà là bổ túc nhau , dùng làm biểu kí cho nhau .
&&&&&&
Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2007
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét