Dịch Học Tinh Hoa –Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Chương 4.1
THỜI :
Có thể nói , toàn bộ Chu Dịch tóm lại chỉ có 1 chữ THỜI mà thôi ( Chu Dịch nhất bộ thư , khả nhất ngôn nhi tế chi viết Thời ) .
Chữ Thời và chữ Cơ ở Chu Dịch rất là quan trọng . Cho nên thường được gọi là Thời Cơ ..
Nói đến Thời và Cơ ,phải lưu ý đến 2 chữ Cập thời . Hiểu được 2 chữ ấy đâu phải dễ .Ở quẻ Kiền Văn ngôn có viết : Quân tử tiến đức tu nghiệp dục cập thời dã , cố vô cửu . Người quân tử tiến đức tu nghiệp chỉ cầu hành động cho kịp thời , bởi vậy mới không lỗi lầm . Đó là tất cả bí quyết trong đạo xử kỉ tiếp vật của Chu dịch .
Lại cũng nói : Chung nhật kiền kiền dữ thời giai hành . Cả ngày chăm lo sốt sắng ,là muốn đi đúng với chữ Thời ,tức là đúng Thời và hợp Thời.
Bỏ mất chữ Thời , thì hành động nào cũng sẽ hỏng , có khi nguy hiểm cho xã hội và cho cả thân mình là khác .
Ở quẻ Kiền có câu : Kì duy Thánh nhân hồ ! Tri tiến thoái tồn vong chi đạo nhi bất thất kì chánh gia , kì duy Thánh nhân hồ !
Ôi chỉ có bậc Thánh nhân mà thôi ư ! Biết được cái đạo tiến thối , mất còn , mà không làm mất chỗ chánh trung của nó . Ôi chỉ có bậc Thánh nhân mà thôi ư !
Chữ Thời của Chu Dịch không phải là cái Đạo xu thời phụ thế , mà phải biết tuỳ thời mà thuận , tuỳ thời mà chống , để đừng làm mất đạo trung . Chữ Thời phải hiểu vời nghĩa như thế , tức là theo 2 nghĩa thuận nghịch của Âm Dương .
Thời là Biến , nhưng mà biến đúng Thời , theo đúng với đạo Trung ( bất biến ) nên mới nói : nhi bất thất kì chánh . Như thế ,cái đạo trung của Chu Dịch là biết giữ mức quân bình giữa 2 chiều thuận nghịch , nghĩa là chấp kinh mà cũng biết tùng quyền . Chấp Kinh là Thường đạo , tùng quyền là quyền đạo .
Ở quẻ Cấn ,Thoán truyện có viết : Thời chỉ tắc chỉ , thời hành tắc hành , động tịnh bất thất kì thời. kì đạo quang minh . Thời nên nghỉ , thì nghỉ ,Thời nên làm thì làm . Nếu động tịnh không sái thời , thì đạo mới được sáng tỏ . Bởi vậy mới nói : Dịch là quyển sách dạy ta cái đạo biết tiến biết thối, biết giữ cho còn , biết làm cho mất .( tri tiến thoái tồn vong chi đạo ).
Nhưng Thời cũng có 2 nghĩa : thời bên ngoài và thời bên trong . trong đạo xử thế , trước phải rõ cái thời trong ta . Rõ được cái thời trong ta , nhiên hậu mới có thể bàn đến cái thời bên ngoài . Nếu cái thời trong ta chưa được dự bị và thực hiện đầy đủ , thì cái thời bên ngoài dù có tốt đẹp bao nhiêu , cũng không nên bàn đến làm chi vô ích . Nói theo Binh thư , đó là cái đạo Tri kỉ tri bỉ .Thời bên trong và thời bên ngoài phải tương đương mới tương ứng : Đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu .
Bậc thức giả phải lo dự bị cái Thời bên trong để chời đợi cái thời bên ngoài mà hành sự ( như đã nêu ở hào sơ cửu quẻ Kiền ). Đã có không biết bao nhiêu cuộc cách mạng bên ngoài đổ vỡ , không thực hiện được đúng sứ mạng của nó , là vì cuộc cách mạng bên trong của nó chưa dự bị để theo kịp , để đáp ứng .
Ở hào 6 quẻ Kiền diễn rất rõ lẽ ấy : 6 hào của quẻ Kiền là tượng 6 Thời . Sáu Thời cũng lại phân thành Nội và Ngoại .Nội và Ngoại dùng làm biểu lí cho nhau , không thể rời nhau , nên mỗi quẻ gốm có 6 hào : 3 hào nội , 3 hào ngoại , tượng trưng Nội Thời và Ngoại thời . Trong 1 đơn quái cũng có Nội Ngoại : hào giữa là hào chính trung ,gọi là nội hào ,còn 2 hào trên dưới thì gọi là Ngoại hào .
&&&&&&&
Chú thích : Dịch không phải là duy tâm hay duy vật , như có nhiều người đã nhận định sai lầm . Dịch gồm cả Tâm Vật , là Nhất nguyên luận .
Nếu nhìn bằng cặp kính duy vật , thì chỉ thấy Dịch là duy vật . Duy tâm cũng thế .
Vì con người bị xé nhỏ , nên không có con mắt tổng hợp .
Con nhà Võ nói là : đả thông Nhâm Đốc nhị mạch .
Con nhà Phật gọi là : Đáo bỉ ngạn .
Ôi chỉ có Thánh nhân thôi sao ? Con người cứ tranh dành ngôi vị , thập nhị sứ quân …Loạn li mãi …
&&&&&&
Đứng về phương diện Vũ trụ luận , hay nhân sinh luận . Dịch không nhận có sự phân chia Nội Ngoại , Tâm vật …mà tất cả là 1 . Cho rắng Dịch học là Duy Tâm hay Duy Vật đều là sai lấm cả : người và xã hội là 1 , cũng như người và vũ trụ vạn vật không phải là 2 .
Nội Ngoại tương ứng 1 cách khít khao , cho nên luật Đồng thanh tương ứng , đống khí tương cầu , là 1 trong những quy luật quan trọng nhất của Dịch lí , như đã nói trước đây .
Bởi nội ngoại phải tương ứng và tương xứng với nhau 1 cách điều hoà , nên ở Dịch hệ từ mới có lời khuyến cáo sau đây : Đức bạc nhi vị tôn , trí tiểu nhi mưu đại , lực tiểu nhi nhiệm trọng , tiển bất cập hỉ . ( Đức mỏng mà ngôi cao , trí nhỏ mà lo việc lớn ,sức nhỏ mà gánh nặng ,thì ít khi thành việc ) .
Như trước đây đã bàn qua , chỉ có biến mới có đổi mới , nghĩa là phải có tử mới có sinh . Cho nên , nói sinh sinh là nói đến tử tử , như câu này ở hệ từ thượng truyện : Nhật tân chi vị thịnh đức , sinh sinh chi vị Dịch . ( Ngày 1 đổi mới , gọi là đức thịnh , sinh rồi lại sinh , gọi là Dịch . Có thịnh mới có cùng , có cùng mới có biến , có biến mới có chết , có chết mới có sinh , và sinh sinh bất tận )
Nhưng biến , không nên để cho đột biến mà nên để cho tiệm biến , nghĩa là biến từ từ . nếu để cho sự việc đến mức cùng , gây đột biến ( biến 1 cách đột ngột ) thì phần lợi ít mà phần hại nhiều . Nên chi cái đạo của Dịch cầu lấy chữ Thông làm gốc .
Muốn biến từ từ theo lẽ tự nhiên ( vì Dịch chủ lấy tự nhiên làm gốc ) để cho người ta biến mà không biết , hoá mà không hay , phải theo cho đúng thời , không nên quá sớm , cũng không nên quá muộn , không nên thiên hẳn vế 1 cực đoan nào cả ( bất thiên vu lưỡng cực đoan )
Tóm lại , nói về chữ Thời trong Dịch , là nói đến vấn đề Trung Chánh của Dịch . Tuy chia ra mà nói , sự thật nói đến Trung Chánh , tức là nói đến chữ Thời , cũng như nói đến chữ Thời , tức là nói đến Trung Chánh . Cho nên thường gọi chung là Thời Trung .
&&&&&&
Nhận xét :
Đừng cho cùng cực , nghĩa là thấy dân đói , không đủ sống , chính quyền phải thay đổi kế sách ngay . Đừng để cho cùng cực , dân phản ảnh , khiếu nại … Đưa tới li loạn …
Bởi thế ,chính quyền phải nhìn xa trông rộng ,đứng để xã hội bị xô đến cùng đường , như bần cùng sinh đạo tặc …Phải sửa đổi chính sách cho hợp lòng dân …
Dịch chỉ là thế mà thôi .
&&&&&&
Thứ Tư, 31 tháng 10, 2007
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét