Quẻ Kiến
. Quẻ Thuần Càn
Nội quái, ngoại quái đều là Càn.
乾: 元, 亨, 利, 貞. Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Dịch : Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền. Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Về sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền là Khổng tử , nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời. Trời có đức “ nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) . Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử . người quân tử có bốn đức. Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời. Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời. Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời. Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời. Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi. Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi. Hào từ :Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.
初 九: 潛 龍 勿 用 Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.
Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 . Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi. Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân). Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2. 九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎. Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi. Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2
九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎. Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi. (Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi). Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định. Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi. Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được. Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.
九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人. Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Giảng : Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua). Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi. Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).
上 九 . 亢 龍 有 悔. Thượng cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận. Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu). Văn ngôn : giảng thêm: Hào 6 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn ngôn, tác giả Hệ Từ truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII, Tiết 9). Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 . Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt. Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó. J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu. Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi. - Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”. Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ? - Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt. Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn. - Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được. - Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa. Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu” Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . . Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.
*
PHỤ LỤC
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh. - Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn) “rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.” - Tào Thăng (sách đã dẫn). “người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .) Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp). - Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối: “con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành. Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.
hết: I. Quẻ Thuần Càn, xem tiếp: 2. Quẻ Thuần Khôn
đánh máy: Huyền Băng, sửa chữa và hiệu đính: Trương Củng, vnn, mọt sáchNguồn: Vnthuquan-Thư viện Online
&&&&&&&&&
( So sánh 2 người nói về quẻ kiền ,xem có gì hay )
&&&&&&&&&
Dịch kinh linh thể 4 – Kim Định – Triết lý an vi –
VI. NHỮNG CHẶNG TIẾN CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI THEO QUẺ KIỀN
Sau khi đã nắm đựơc mấy điểm then chốt về Kinh Dịch thì bước thứ nhì phải học về tiến trình chuyển hóa của tâm thức con người . Vì đó chính là tinh hoa của Kinh Dịch . Lộ trình tiến hóa đó được đề cập ngay ở đầu quyển Kinh nơi quẻ Kiền với lời Kinh như sau :
Kiền . Nguyên , Hanh , Lợi , Trinh .
Chữ hán
1. Sơ cửu : tiềm long : vật dụng
2. Cửu nhị : hiện long tại điền , lợi kiến đại nhận .
3. Cửu tam : quân tử chung nhật kiền kiền , tịch dịch nhược lệ : vô cữu .
4. Cửu tứ : hoặt dược tại uyên : vô cữu .
5. Cửu ngũ: phi long tại thiên : lợi kiền đại nhân .
6. Thượng cửu : kháng long hữu hối .
7. Dụng cửu : hiện quần long vô thủ : cát .
Chữ hán
Ðó là trang đầu của Kinh Dịch , có thể đại biểu cho cả sách . Chúng ta thầy một lối văn kỳ lạ , và nếu đừng về lý trí suông thì đó là một đoạn văn nhát gừng không cho thấy được gì đáng lưu ý đặc biệt , nhất là sau thời kỳ người Viễn Ðông được nuôi dưỡng trong cái học duy lý thì càng thấy xa lạ . Nhưng đã nói nội dung Kinh Dịch có tính chất lưỡng thê , nên không được dùng lý trí suông để tìm hiểu , vì như vậy sẽ chỉ thấy được có một chiều . Vậy phải dùng lối quan lối ngoạn , và lúc ấy sẽ nhận ra đó là một nền Minh triết linh động uyển chuyển . Quẻ Kiền đưa ra bốn chặng nền móng trong 4 chữ Nguyên Hanh Lợi Trinh .
Nguyên là điểm khởi phát
Hanh là chặng phát huy hanh thông
Lợi là chặng tựu thành
Trinh là kéo dài thành quả.
Nhìn qua bốn chặng trên chúng ta liền nhận ra tính chất phổ biến hay là vũ trụ theo nghĩa phi thời gian nên là miên tục trường tồn . Ðó cũng gọi là vòng trong . Trái lại vòng ngoài thuộc những sự vật bé nhỏ riêng rẽ có hình thể thì quá trình tiến triển đi theo tứ tự : sinh , thành , suy , hủy . Vì Kinh Dịch chuyên nói về vòng trong nên trình bày quá trình biến hóa của cuộc đại diễn thuộc vòng trong , nên không nói sinh , thành , suy , hủy nhưng nói nguyên , hanh , lợi , trinh . Bốn chặng tiến hóa chung này sẽ được quảng diễn trong 4 hào 2, 3, 4, 5 như sau :
Hào 1 - 6 : hào 1 và 6 đều nói lên chỗ quá đáng nên bảo đừng dùng : " tiềm long vật dụng " . Long là con vật thuộc huyền thoại không ai thấy , nên Kinh Dịch dùng để chỉ cái đức , cái linh lực , hay là cái nguyện vọng sâu thẳm nơi con người hướng đến trạng thái viên mãn tròn đầy cũng gọi là Ðạo Thể Viên Dung . Bao lâu chưa xuất hiện cái tâm thức đó thì không nên dùng : " tiềm long vật dụng " . Nói về triết thì bao lâu chưa đạt tâm trạng nhân bản tức là biết trọng nhân phẩm và tự do con người và tìm cách phụng sự con người mà đã vội dùng ngay những dữ kiện của giác quan để lý luận , tạo tác ra các triết thuyết , thì đó sẽ chỉ là cái học trục vật : y như đất là đất trải rộng ra trước mắt , bên ngoài con người , hoàn tòan hàng ngang sẽ thiếu chiều dọc tâm linh, nên là duy vật . Tiềm long là rồng ẩn còn dưới đất . Chữ đất hay ruộng là do hào 1 , 2 thuộc về địa .
Hào 6 cũng thế , nó chỉ trời nhưng là thứ trời cứng đơ đối kháng với người nên lời Kinh cho là biết tiến mà không biết thoái " kháng long tri tiến nhi bất tri thoái , chữ hán " . Cho nên dùng nó thì là duy tâm , duy linh một chiều chống đối với duy vật ở hào 1 , cả hai đều song song đối kháng như cái gông dài hai mươi lăm thế kỷ kìm kẹp làm ngột thở cái hồn Minh triết . Vì khi dùng 2 hào này thì đều là cái học xa người : trời quá trời, đất quá đất không liên hệ chi với người như hào 2 tuy thuộc địa và hào 5 tuy thuộc thiên nhưng nằm sát hai hào nhân là 3, 4 . Nên dùng 4 hào đó : 2, 3, 4, 5 mớ là "nhân dịch" hay là "kỷ dịch" có hướng nội . Còn khi dùng hào 1, 6 thì ra "vật dịch" . Dùng đến sẽ hối hận : "kháng long hữu hối, chữ hán" . Vì rằng "cùng chi tai dã, chữ hán" . Cái gì dù cao như trời mà đi đến chỗ quá đáng thì trước sau gì rồi sẽ dẫn tới tai họa . Như thế chỉ còn lại 4 hào 2, 3, 4, 5 .
Hào 2- "hiện long tại điền" là nói về tâm thức đã khởi xuất hiện trên mặt ruộng . Vì đây là hào 2 thuộc địa nên nói ruộng mà khi giải nghĩa theo lối " kỷ dịch " thì phải hiểu là tâm trạng thức tỉnh đối với đạo làm người ( nhân đạo ) nên lời Kinh nói : " Lợi kiến đại nhân " . Nếu hiểu thấp thì có nghĩa là nên đi gặp ông lớn ( để kiếm một ghế bộ trưởng ) , nhưng nếu giải theo lối Kỷ dịch thì phải hiểu là " Mỹ lợi " tức cái " lợi phổ biến của đợt an vi " và câu " lợi kiến đại nhân " chỉ có ý nói cần phải vượt qua giai đoạn trục vật thuộc hào 1 và 2 để tiến lên đợt Nhân bản tâm linh . Vì thế lời Kinh thêm rằng : " hiện long tại điền : thời xả dã , chữ hán " , khi long đức xuất hiện trong tâm hồn nào thì đó là thời xả , thời mà lý trí sẽ lơi ra khỏi cái nhìn duy địa , duy lý đặng đi đến những chân trời xa lạ của tâm linh (tiềm thức, vô thức) ; ở lì lại trong chặng lý sự ( địa thời ) tức là tự giam hãm mình trong đợt nhị nguyên đối kháng : đất chống trời , trời chống đất cả hai tạo nên những lý thuyết chống đối tiêu cực hay là trừu tượng son đẹt , nên cần thóat ra khỏi đó . Có hai lối thoát : một là bằng kinh nghiệm sống của hoạt động sẽ tả ở hào 3 , hai là bằng lối "thù tĩnh đốc vô vi" ở hào 4 .
Hào 3- "quân tử chung nhật kiền kiền" quân tử suốt ngày họat động . Dùng hai chữ kiền kiền nói lên tính cách an vi , chú trọng tới làm nhưng không còn chấp đối tượng như có thể xảy ra ở hào 1, 2 . do đó nói kiền kiền mà không nói kiền cái chi , nghĩa là chỉ có động từ , nên lời kinh còn chua thêm "dữ thời giai hành , chữ hán" luôn luôn hành động . Hành động mà không có đối tượng để tránh cho lòng khỏi chấp vào đâu cả , đặng thong thả tiến lên cõi Ðạo là cái toàn thể bao la gồm cả trời đất người chứ không quy hướng vào một đối vật bé nhỏ nào hết .
Ðó là lối họat động , kế đến là lối cảm tình cũng thế : "tịch dịch nhược lệ: vô cữu" , chiều đến còn như lo săng sắc : không lỗi. Chữ lệ có nghĩa là mạnh mẽ ( lệ thanh : lớn tiếng , lệ tinh: phấn khởi tinh thần) như "lo mạnh" , nhưng không lo về một cái gì nền toàn bầu tình tứ giốc vào việc lo, nhưng không có đối tượng nên nói "như lo mạnh : dịch nhược lệ" . Thực ra đây là lo cho Ðạo , lo cho đường tiến hóa nên chữ "dịch" ở hào 3 thêm bộ tâm vào chữ dịch là nét đặc trưng của hào 3 là Nhân Bản , mà nên Nhân Bản chân thực bao giờ cũng phải chú trọng đặc biệt đến việc chuyển hóa tâm thức con người nên nói : "cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch, chữ hán" , do đó mà còn phải tùy thời để cải hóa tâm hồn .
Cũng có một chữ nữa nói lên tính chất đi vào nội tâm là chữ "tịch" , tịch là đêm tối , nếu ngày biểu thị ý thực lý trí thì đêm biểu thị tác động huyền diệu của các sức lực thiêng liêng tai mắt không thấy được , nhưng luôn luôn làm việc để đưa con người đạt tới trình độ thông hiểu để giải thóat . Bởi thế thay vì duy lý thí dụ "ngôn ngôn thì đây nói "kiền kiền" : thay vì nói lên bứơc rẽ đi từ "vật dịch" tiến vào "nhân dịch" , "kỷ dịch" .
Vào đến kỷ dịch thấy mở ra hai lối : một là nhất hạp , hai là nhất tịch . Nhất hạp là lăn lưng vào đời sống : un engagement , một bước đi vào cuộc sống sinh lý, xã hội như lập gia đình , tìm địa vị , giúp cải thiện xã hội . Nếu không đi qua đợt này thì khó phát triển hết mọi khả năng con người , vì đây thuộc giai đoạn tán , tán là một "nửa" của Ðạo : nửa âm; có làm tròn nửa âm thì mới bước sang "nửa" dương , và khi làm tròn nửa dương là "tụ vào, quy tâm" thì mới đạt Ðạo là cái bao gồm cả âm lẫn dương : "nhất âm nhất dương chi vị đạo" . Vì thế lời Kinh được bàn rộng rằng : "Quân tử tiến đức tu nghiệp . Trung tín sở dĩ tiến đức dã . Tu từ lập kỳ thành sở dĩ cư nghiệp dã . Tri chí chí chi , khả dĩ cơ dã . Tri chung chung chi ; khả dĩ tồn nghĩa dã , chữ hán" .
Muốn lăn lưng vào đời theo lối hiền triết thì cần tiến đức tu nghiệp . Muốn tiến đức thì phải lấy hai chữ trung tín làm nền . Muốn tu nghiệp phải biết tu từ để đạt đến độc lập . Lập là bước thứ ba trong tiến trình học tập gồm 4 bước là học , hành , lập , quyền . Vậy chớ hiểu tu từ là luyện văn chương hay sáng tác văn nghệ , nhưng phải hiểu từ theo nghĩa uyên nguyên là lời vô ngôn hay lời Tự sự theo nghĩa Logos của cố hiền triết Hy Lạp hay Vac của nền minh triết Ấn Ðộ . Hiểu cụ thể thì có thể là những lời trong Kinh Dịch phải biệt ngoạn biết chiêm .
&&&&
Muốn tu từ theo nghĩa sơ nguyên thì cần vừa phải biết chỗ chí cực mà cũng vừa phải đi tới chỗ chí cực . Có thế mới hiểu đặng thiên cơ (là điều cần cho được lập kỳ thành) , phải biết chỗ cùng cực , và làm cho trọn vẹn thì mới tốt nghiệp . Ðó là một sứ mạng gồm cả nội thánh lẫn ngoại vương , nên hết sức cao trọng . Còn nếu để mình trụt cuống đợt cưỡng hành , lợi hành ở hào 1 , 2 thì sẽ chấp vào một đối tượng bé nhỏ mà không còn là kiền kiền , không còn là triết lý bằng động từ . Vì thế tuy lo mà không mắc lỗi .
Ở đây nên chú trọng đến mấy chữ "tri chí chí chi , tri chung chung chi" . Ngược với hào 6 nói "cùng chi tai dã" hay hào 1 "tiềm long vật dụng" . Tại sao hào 3 hô đi đến cùng cực mà hào 6 lại nói "cùng cực là tai họa" ? thưa khác nhau vì hào 3 thuộc nhân , càng cùng cực thì càng đi sâu vào nhân tính . Cho nên ở hai hào nhân đều hô đi đến cùng cực: có chí trung (kỳ trung) thì mới đạt chí hòa . Nói khác nếu hỏi biết đâu là chí , biết đâu là trung ? Thì thưa rằng : chí hay trung đều không ở đây không ở trời nhưng ở nơi người . Vì thế đến hào 4 nói về nhất tịch , un disengagement , còn cách mạng hơn nữa là hô nhảy vào uyên tuyền , tức là đi đến cùng cực .
Cũng nên ghi nhận xét sau : ở hào 3 cũng như hào 4 đều không nói tới Long , là vì hai hào này thuộc Nhơn , nên dùng chữ quân tử là chủ thể thay cho chữ Long . Hào 4 không có chủ thế thì hiểu ngầm là cùng một chủ thể như hào 3 .
Hào 4 -"hoặc dược tại uyên : vô cữu" , hoặc nhảy vào uyên mặc: không lối . Phương pháp "dược tại uyên" này mạnh hơn lối "kiền kiền" ở hào 3 . hào 3 gồm 3 bước , một bước ngầm là lơi ra khỏi lý trí thuộc hào 1, 2 . Còn hai bước tích cực thì một là họat động (kiền kiền) hai là vun tười tâm tình (dịch nhược lệ) . Hào 4 cũng theo hướng "kỳ dịch" như hào 3 nhưng đi mạnh hơn : về tiêu cực không phải lơi ra khỏi lý trí nhưng là chống lại lý trí và để sự chống lại được mạnh mẽ thì nhảy vào uyên mặc : đoạn tuyệt không những với lý trí mà luôn cả với hành động và cảm tình .
Vì thế lời Kinh cho là cách mạng : "hoặc dược tại uyên : kiền đạo nãi cách, chữ hán" , nhảy vào hố thẳm là cách mạng . Nếu gọi hào 3 là "hữu vi" thì dược tại uyên là "vô vi" . Tuy nhiên không lỗi vì còn đang trong tiến trình dịch lý là đạo hành vi , nên được tại uyên chỉ là nói lên tính cách linh động uyển chuyển có lên mà cũng có xuống : "thượng hạ vô thường phi vi tà dã: tiến thoái vô hằng phi lý quần dã , chữ hán" , lên xuống không có luật thường miễn là không làm điều tà vậy ; tiến thoái không có luật nhất định miễn không xa lìa xã hội . Tuy nhiên lại đặt chữ hoặc chỉ ý nghi ngờ vì đây là trạng thức có phần nguy rất dễ ly quần , xuất thế, nên lời kinh nói :
"Thượng bất tại thiên
Hạ bất tại điển
Trung bất tại nhơn
Cổ hoặc chi
Hoặc chi giả nghi chi dã".
Chữ hán
Trên chưa đã trời (trời khởi từ hào 5, đây mới là hào 4) dưới đã lìa đất (đất hết hào 2) giữa không ở với người . Vì tuy hào 4 thuộc nhân nhưng cái vị trí (hào 4) là dương : hào dương ở vị dương cả hai đều cứng : như thế có cứng thiếu mềm khó thích nghi với xã hội , nên lời kinh nói : cửu từ trùng cương nhi bất trung, chữ hán" : hào 4 hai lần cương thì không phải là trung . Vì trung phải ở giữa cương và nhu . Toàn cứng thì sao mà trung , bởi vậy khi trải qua giai đoạn này cần phải nghi ngờ mới không lỗi .
Hào 5- "phi long tại thiên , lợi kiền đại nhân" .
Hào 5 thuộc thiên nên chữ long tại xuất hiện . Lần này xuất hiện trên trời, bay lượn thong thả . Ðó là tả cái cảnh đạt Ðạo : Ðạo của thánh nhân . Lợi kiền đại nhơn : cũng một câu như hào 2 , nhưng ở hào 3 đại nhân được nhắm tới như một ý tưởng . Còn đây là đã đạt được đích , hành giả đã trở thành đại nhân rồi , nên ở hào 5 kể ra đức tính của đại nhân như sau :
Phù đại nhân giả
Dữ thiên địa hợp kỳ đức
Dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh
Dự tứ thời hợp kỳ tự
Dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung
Chữ hán
Thật là đúng nghĩa đại nhân mà sứ mạng là hòa là hợp là giao là hội (xem Nhân Chủ) . Vì cho được thành đại nhân theo đúng nghĩa thì không còn để mình bị tù túng trong một cái duy nào nữa : không duy địa , duy thiên , hoặc duy nhân ; nhưng là hợp với linh đức của trời đất , hợp với sáng soi của nhật nguyệt, hợp với tiết diệu của 4 mùa , hợp với cát hung của quỷ thần .
Mấy câu này nói lên mức "chí thành" của hào 5 : tất cả những gì đã khởi sự ở các hào 2, 3, 4 đều được kết tinh nơi hào 5 , nên mở ra rộng tới tận cùng bờ cõi vũ trụ , nhờ đó mà đại nhân đạt độ sáng tác tạo dựng . Tất nhiên không có ý nói về sáng tác văn nghệ nhưng về "an bang tế thế" khó hơn nhiều vì đòi phải biết đến thiên cơ , để hướng dẫn thiên hạ . Phải nhìn ra được rất nhiều cách giải quyết cho một vấn đề và biết chọn một lối ứng đáp thích hợp hơn cả . Nhờ đó trở thành uyển chuyển linh động không bị bò sát vào một lối giải quyết nhưng có thể "vô khả bất vô khả" . Ai làm được như thế , nếu không phải là bậc "phi long tại thiên" nghĩa là bay rất cao đặng nhìn rất rộng hầu có thể tạo với tác , nghĩa là thích ứng với mọi hoàn cảnh . Nếu đọng lại ở "hữu vi" hay "vô vi" thì làm sao linh động được như thế . Bởi vậy lời kinh nói : "quân tử kiến cơ nhi tác , chữ hán" và "thủ xuất thứ vật vạn quốc hàm ninh , chữ hán" , người hướng dẫn (đi đầu) thiên hạ , làm cho vạn quốc được hàm ân , tức là được hưởng an ninh . Vì đó là hậu quả của "thượng trí dã" . Vì thế lời kinh nói :
Ðồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu.
Thủy lưu thấp , hỏa tựu táo
Vân tùng long , phong tùng hổ
Thánh nhân tác , nhi vạn vật đổ
Bốn hồ thiên giả thân thượng
Bồn hồ địa giả thân hạ
Tắc các tùng kỳ loại dã .
Chữ hán.
&&&&
Nhờ nền minh triết phổ biến không duy thiên hay duy địa , mà có thủy có hỏa , có lên có xuống , có thân thượng mà cũng có thân hạ , nên không một khuynh hướng nào bị ức chế , nhưng được phát triển tùy tài . Ðó là cái sáng tác của thánh nhân khiến hết mọi người đều xem thấy đều được hưởng nhờ .
Hào 6- Ðã nói trên : "dùng thì hối" . Lời kinh thêm lý do : "tri tiến nhi bất tri thoái , tri tổn nhi bất tri vong , tri đắc nhi bất tri tang , chữ hán" , biết tiến mà không biết thoái , biết còn mà không biết mất , biết đắc mà không biết thất . Ðó là lối nhị nguyên độc khối một chiều , nên thiếu linh động . Vì thế tiếp sang hào dụng cửu .
Dụng cửu : không có hào 7 mà lại có dụng cửu , đó là một nét đặc trưng của quẻ Kiền . Dụng cửu được thêm vào để nói lên 7 đợt tiến hóa của con người , vì đó là luật trời "thiên tắc" . "Kiền nguyên dụng cửu : nãi kiến thiên tắc, chữ hán", mà thiên tắc là "lục hào phát huy , bàng thông tình dã , chữ hán": cả 6 hào phát huy, gần nhau mà thông hội. Ðây gọi là "tắc thiên" cao hơn nghi thiên , oán thiên v.v.
Tại sao trên đã gạt bỏ hào 1 và 6 mà đây lại gồm cả 6 ? Thưa không chuyên dung , nhưng bao hàm do sự lân cận : hào 2 liền với hào 1 cùng đất , hào 5 liền với hào 6 cùng thiên . Sở dĩ bao hàm được vì không nói ra , không viết ra . Chính ví không nói ra nên hiệu năng toàn triệt . Bởi vậy lời kinh nói "bất ngôn sở lợi đại tai hỷ , chữ hán" : không nói ra nên lợi rất lớn ! Và sự không nói diễn đạt bằng câu "hiên quần long vô thủ, chữ hán" : hiện ra một đoàn rồng không đầu , đòan rồng là 6 hào hay chia ra ba cặp , chỉ Tam tài quy vào Nhất thể như Ðầu . Nhưng Thể đây là tiềm thể u linh không xuất hiện nên gọi là vô thủ .
Nói vô thủ tức cũng là vô vĩ , vô thân , vô túc , nên không cần chỗ để chân hay dựa đầu . Không có gì nên không phải ở đâu , đó là thần , vì "thần vô phương". Chính vì vô thủ nên diệu dụng như thần , bao hàm khắp hết các đợt tiến của con người và sẽ tùy thời , tùy trình độ mà dùng hào này hào kia uyển chuyển đặng đi lên trời : "vị bộ nhơn với lập thành , thời thừ lục long dĩ ngự thiên , kiền đạo biến hóa . Các chính tính mệnh , bảo hợp như đại, chữ hán" : sáu nấc tiến , tùy thời mà thành tựu . Tùy thời mà cỡi 6 con rồng để đi lên trời . Thì mọi loài sẽ tiến theo đúng cái tính của mình gây nên cuộc thái hòa trong vũ trụ .
Ðó là lộ trình tiến hóa được tả lại trong quẻ Kiền nhằm giúp cho mọi vật giữ được tính mệnh để duy trì sự hòa hợp cùng tột .
Ðó là cứu cánh của con người mà xưa kia thánh nhân đã nhằm khi làm ra Kinh Dịch với mục đích giúp con người thuận theo cái lý của tính mệnh : "tích giả thánh nhân chi tác Dịch dã , tương dĩ thuận tính mệnh chi lý , chữ hán" (thuyết quái 2 )
&&&&&&&&
Ghi nhận riêng :
Bây giờ , 2007 , thì ứng vào quẻ nào ? Làm sao biết cách xử dụng ?
Chứ học như con vẹt 64 quẻ , thì có áp dụng được không ?
Làm sao biết thuận thiên hành đạo ?
Hay là lấy đại 1 quẻ nào đó chăng ? Bởi thế ,có mà như không ? Vì chả ai biết cách xủ dụng Kinh Dịch ?
Môn võ công bí truyền này ,chỉ truyền cho ai có nội lực cao siêu , đả thông Nhâm Đốc nhị mạch ? Như Trương Vô Kị hay Đoàn Dự ?
&&&&&&&&
Thứ Ba, 9 tháng 10, 2007
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét