Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2007

dục tốc bất đạt

Lão Tử Đạo Đức Kinh – Nguyễn Hiến Lê soạn .
Câu 8.
Thượng thiện nhược thủy .Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh . Xử chúng nhân chi sở ố . Cố cơ ư đạo . Cư thiện địa . Tâm thiện uyên . Dữ thiện nhân . Ngôn thiện tín . Chính thiện trị . Sự thiện năng . Động thiện thời.Phù duy bất tranh , cố vô vưu .

&&&

Giải nghĩa .
Người thiện vào bậc cao ( có đức cao ) thì như nước . Nước khéo làm lợi vạn vật mà không tranh với vật nào . Ở chỗ mọi người ghét ( chỗ thấp ) cho nên gần với đạo .
( Người thiện vào bậc cao ) địa vị thì chọn chỗ khiêm nhường . Lòng thì khéo giữ cho thâm trầm . Cư xử với người thì khéo dùng lòng nhân . Nói thì khéo giữ lời . Trị dân thì giỏi . Làm việc thì có hiệu quả . Hành động thì hợp thời cơ . Chỉ vì không tranh với ai , nên không bị lầm lỗi .

&&&

Ghi nhận :
Đây là trang dành cho người cầm quyền chính . Bộ máy nhà nước là bộ máy điều khiển quốc gia . Không tham dự kinh tế , an ninh , tư pháp . Chỉ đứng cầm cân nẩy mực , là trọng tài . Nên không thể dính dáng tới tài chính , công ty , tranh dành cổ phiếu ...
Nên không tham quyền cố vị , không tranh dành miếng ăn . Không công ty gia đình , bè phái .
Bậc cầm quyền là người nghèo , không ham tiền , nhưng có tài đức .
Xã hội thế giới bây giờ không có ai . Tất cả vì tiền quyền lợi danh .
Không vì dân vì nước , vì nhân loại thế giới !

&&&

Động thiện thời . Thế nào là đúng thời ? Vì quá nôn nóng , nên ta đi tắt đón đầu ?
Xây dựng nhà máy tràn lan ! Tăng vật phẩm , tăng nông sản ...nên gia tăng chất phân hóa học , thuốc trừ sâu , thuốc tăng trưởng ...
Không ngờ thế hệ sau , phải bị bệnh ung thư do ăn phải các chất trên .
Vì mau mắn muốn xây nhà máy , nhưng không làm hệ thồng lọc chất thải . Mà đổ thẳng ra sông biển !
Vì mau mắn muốn phát triển xây nhà cửa , cao ốc , đường xá cầu cống , nên phá rừng phá núi ...lấp sông rạch ...
Nên bị lũ lụt , sụp lở núi , và bị ngập lụt . Tai họa do ta nôn nóng muốn theo kịp tây phương .
Dục tốc bất đạt .
Hơn nữa , thanh thiếu niên vì ham sang giàu , trở nên hủ hóa , bắt chước tiêm nhiễm nền văn hóa xấu của thế giới ! Cả 1 thế hệ bị hư hỏng , nay muốn sửa sai lại cũng mất tốn nhiều thời gian .
Mà chưa chắc phục hồi như cũ !

&&&

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2007

hòa bình

Vô vi Nhi Vô bất Vi ?
Hữu Dũng Vô Mưu ?
Danh chính ngôn thuận .
Chính trị chứ không tà trị .
Bất xuất hộ nhi tri thiên hạ.
Người Nhật có thú trà đạo , ngồi ngay ngắn , với những động tác thành kính và nhẹ nhàng ! Con người khi đó đã hòa nhập với vũ trụ và thượng đế !
Quên đi những phiền muộn và tranh chấp hàng ngày .
Quá xá là hay !
Hay là thú bonsai , trồng cây kiểng .
Mà cũng là 1 môn học có đẳng cấp từ thấp lên cao . Dành cho bất cứ ai cũng nên tham gia . Quốc gia nên lấy đó làm chủ đạo .Xây dựng 1 con người toàn diện , hợp với nhân bản .
Nên đưa những môn học làm người vào dựng 1 con người !ộng tác thành kính và nhẹ nhàng ! cấp tiểu học . Còn hay hơn là học thuộc lòng những câu văn thơ vô ý nghĩa hay chủ trương đấu tranh giai cấp , gây xáo trộn trên thế giới .
Con người yêu thích hòa bình và bình yên tâm hồn , hướng thượng . Không nên gây tranh chấp mâu thuẫn lẫn nhau !
Giảm bớt thú vui trần tục ,không tham lam ăn chơi xa đọa . Không nên ham ăn mặc se sua , đú đởn , nhẩy nhót , khoe khoang tài sản và vật chất . Không ý quyền thế , không dựa dẫm cha mẹ hay người thân làm lớn mà ức hiếp bè bạn . Ức hiếp đồng sự và nhân dân .
Hãy sống giản dị , khiêm tốn sạch sẽ .Và luôn luôn giúp ích người khác !
Không tham lam . Ăn chặn tiền bạc người khác . Không theo đua đòi văn minh vật chất mà hủ hóa bản thân ,
Hãy tập thiền yoga . tập lao động chân tay . Học và hành đi đôi với nhau .Không nên học chay , học mà không thể hành được .Nghĩa là cái học vô bổ . Có
hại . Học trồng cây kiểng rất hay . Bất cứ nhà ai dù nhỏ bé hay có sân vườn ,đều có thể học được . Biết đâu sau này lại trở thành nhà trồng cây vĩ đại , xuất nhập khẩu cây kiểng !
Chúng ta chê ngày xưa học từ chương , nay chúng ta còn từ chương gấp 100 lần . Học trà đạo giúp con người hiền từ và chăm chỉ . Không nóng nẩy . Rất tốt . tại sao ta không học ?
Hãy nên làm thành 1 phong trào rộng lớn . Làm thành chủ đạo quốc gia . Đưa nhân dân lên hạnh phúc ấm no . Mà không phồn vinh giả tạo . Sung túc nhưng yên ổn . Không có tranh dành trộm cướp !
&&&
Còn học võ , nên học Aikido , môn võ tình thương , không đấu đá .
&&&

Thứ Tư, 12 tháng 12, 2007

1 suy nghĩ

Công thành thân thoái
Cuộc sống bao giờ cũng tiến không ngừng . Nếu không thề sẽ bị đào thải ! Hơn nữa lòng tham vô đáy , nên con người tham quyền cố vị .
Tiền , quyền , lợi , danh ... 4 thừ này mê hoặc ta . Cho nên phải dùng bất cứ thủ đoạn nào để ngồi ngôi vị cao càng lâu càng tốt !
Càng hút máu mủ dân chừng nào , thì oan ức càng lớn , thì đói nghèo càng to . Và xã hội sẽ loạn li ! Chỉ cần 1 miếng bánh con con , con người cũng phải chém giết , dành dựt nhau . Thời 1945, năm Ất Dậu ta đã bị đói 1 trận tới 2 triệu người chết ! Thật tàn nhẫn ! Thời đại văn minh , mà như quỷ dữ ? Lòng tham vô đáy , đua con người tàn nhẫn vô độ .
Trong nước , nông dân mất đất , vô nghề nghiệp vô nhà cửa đưa tới vô gia đình ! Lang thang đầu đường xó chợ ăn xin ?
Cấp trên thì đương đầu với nạn tham nhũng .nạn chất độc trong thực phẩm . Nạn chất độc của nhà máy thải ra !Nạn chất phụ gia ,thuốc sâu rầy ...
Bên ngoài thì Trung Hoa dân quốc , mang danh xã hội chủ nghĩa ? Mà lại đi xâm lăng chiếm đảo ? Cũng chỉ vì mấy giếng dầu !!! Vì tiền cả thôi ?
Hạn chế sinh đẻ là kế hoạch hay nhất ! nên theo cách 4 – 2- 1 . Mỗi gia đình nên chỉ có 1 con mà thôi ! Sau đó triệt sản cả 2 vợ chồng !
Nếu không , thì chỉ trong vòng 50 năm thôi .Thế giới sẽ bị nạn nhân mãn , nạn đói , nạn lụt , nạn ô nhiễm ... đưa tới chiến tranh tàn sát nhân loại .
Thế chiến 1 , 2 là do quá đông dân số địa cầu , nên có chiến tranh làm chết bớt 1 số người . Chỉ 50 năm thôi , dân số địa cầu có thề tăng gấp 2 . Một con số kinh khủng ? Chỉ đứng thôi cũng đủ chật đất , không di chuyển được ? Xe cộ . nhà máy , sẽ làm ô nhiễm khí quyển . Ruộng đất không đủ trồng trọt . Nhà ở không đủ !
Trên thể giới . bóng ma chiến tranh đang lởn vởn . Thay vì xây dựng công trường nông lâm ngư nghiệp , con người lại thi nhau chế tạo vũ khí nguyên tử , chế tạo vệ tinh làm ô nhiễm vũ trụ ! Ngân sách lại dồn cho chiền tranh , quân đội .
Lão tử nói : Ở đâu có chiến tranh , ở đó đất đai biến thành hoang vu gai góc ! Thay vì màu xanh của rừng cây , của thiên nhiên đẹp đẽ ???
Con người chưa giác ngộ sau 2 cuộc chiến tranh thế giới ? Vẫn còn hung hăng và khát máu ?
&&&&&

Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2007

xin ý kiến

Ý tại ngôn ngoại
Xin quí vị hãy thông cảm .
Những bài vở hay tài liệu trích trên những trang web hay blog là do mong muốn lưu truyền cho mọi người , tải những kiến thức học tập , do đó hãy cho phép được lưu truyền ở đây . Như 1 trang nhật ký không hơn không kém .
Với ý muốn tất cả ai cũng cần đọc hay tham khảo tải liệu trên mạng 1 cách vô vụ lợi ! Hy vọng người dân Việt ai cũng có thể hiểu và thực hành những kiến thức , như Kinh dịch , Đạo đức kinh hay Nam hoa kinh ...Và những tài liệu hay khác !
Xin cám ơn tất cả mọi người .Chúc cho tất cả con dân Việt Nam thống nhất từ tư tưởng đến việc làm !
Sài thành 2007-12-08

Thứ Hai, 3 tháng 12, 2007

ý kiến

Việt Nam đi về đâu ?
Bình quân 1 ngưởi ăn 1 con gà ? Nhưng 5 hay 10 người chỉ ngó ? Thì kinh tế sẽ ra sao ? Chia đều thì quá hay ? Chả hạn 1 ông to , vi la , ruộng đất quá nhiều ? nhưng dân nghèo thì vô sản ? Chia đều có đuợc không ?
Bây giờ chỉ hỏi 1 câu ! Đa số dân trước 1975 , có đi làm , nhưng sau giải phóng , không có lương hưu . Còn dân cách mạng hay miền Bắc thì có lương hưu đấy đủ .
Thành ra , không phải là 1 chế độ vì dân , mà là chế độ phân chia đối xử !
Sao mà 100% dân miền Nam được lương hưu hay trợ cấp đầy đủ thì mới hay . Đừng nói khó khăn ? Nếu có khó khăn ? Tại sao người Cách mạng lại có quá xá tiền ? Nhà lầu xe hơi ? Ruộng đất phì nhiêu ?
Tham nhũng lại bảo nước nào cũng có ? Thật là sai lầm ! Vì Ta tự nhận : Xã hội chủ nghĩa là lương tâm của nhân loại , hơn hẳn tất cả chủ nghĩa khác ?. Thỉ người phải là giỏi ,và chọn xứng đáng ? Sao lại tham nhũng quá xá ? Còn hơn nước khác nữa ! Như thế thì tôi chọn đại 1 chế độ khác nhưng công bình hơn có được không ? Mà phải bắt buộc theo CNXH này ? Mà có đóng góp ý kiền thì bị cho là phản động ?Chả lẽ chủ nghĩa này quá tốt không cần phải sửa đổi ?
Mâu thuẫn trầm trọng ! Và Công an là thành phần tốt của xã hội ! Được tuyển chọn gắt gao mới nhận việc ! Sao lại hống hách nhận tiền của dân bỏ túi ? Đạo đức Cách Mạng đâu ? Như 1 giáo viên già Báo Tuổi Trẻ đăng hôm nay , chống tham ô nhũng nhiễu ! ( 4-12-2007 ) Đã được giải thưởng quốc tề về chống tham nhũng !
Khi mà nhân sự nhà nước còn lôm côm không ổn định ,còn tham quyền cố vị , dốt nát mà không chịu sửa đổi hay về hưu , trả lại tài sản đã cướp đoạt của nhân dân khi trước . Thì Việt Nam đã tiến 1 bước khá dài trên thế giới . Của thiên trả địa , chỉ có lương tâm còn mãi .Vì thế không nên tham lam của trời ơi đất hỡi .
Công thành thân thối , về hưu để nhường chỗ cho người tài .
Khi mà chính quyền không 1 ai tham nhũng , rồi tuyển lựa nhân tài , lúc đó mới có nền móng vững chắc tiến lên chủ nghĩa xã hội !
&&&

Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2007

tôi có ý kiến

Học ngu
Việt Nam bắt chước Trung Quốc . Ví không có tài nên mọi sự đều theo , như gà mẹ gà con . Thật là nhục nhã .
Học thuộc lòng văn chương vớ vẩn , đấu tranh giai cấp , nên lúc nào cũng tranh đấu chém giết làm lẽ sống ? Triết lí và chính trị học như kinh nhật tụng ? Sử địa cũng thế . Học từ chương từng niên kỉ ngày tháng … Vớ vẩn làm hại bao nhiêu em học sinh ! Điên vì học thuộc lòng !
Lại tham lam , học toàn diện . Cái gì cũng học lí thuyết như điên . Nhưng thực hành lại là không hay rất ít ! Vá may kim chỉ , điện nước , thêu thúa , nấu nướng …uốn tóc , tin học , chứng khoán ??? Toán lí hóa anh văn cũng làm bài tập như điên .Về nhà cha mẹ làm thay cũng không xong ! Chưa bao giờ 1 nền học quái đản như thế ?
Không có 1 lúc giải trí . Thư giãn , sinh hoạt ngoài trời … cắm trại .
Cặp xách thì nặng nề , còng lưng . Một ngày 5 môn học , với bao bài tập … Làm sao học nổi ? Học thêm chiều tối nữa ? Tốn tiền cha mẹ . Nay lại tăng học phí ? Bảo đảm dân VN sẽ thất học nhiều !
Thay vì chia 1 ngày học 2 môn , cho dễ ôn bài . Không phải mang nhiều sách vở , lùn người !
Cố vần giáo dục học tới đâu ? Mà lại có trọng trách cả 1 dân tộc ? Mà vẫn tham quyền cố vị ? 20 năm 1 thế hệ . Mà ta còn phải khắc phục sai lầm . Coi như chưa đứng ở vạch xuất phát . Mà âm rất nhiều ! Y tế , giáo dục , cầu đường … môi trường đều hư hỏng …Bao giờ mới sửa sai xong ?
Ta chưa có nền móng vững chắc , mà lại cứ nói phát triển ? Trò hề ? Xây lâu đài trên bãi cát .
&&&

Thứ Năm, 29 tháng 11, 2007

hữu vi là nguy hại

Lão Tử Đạo Đức Kinh - Nguyễn Hiến Lê biên soạn .

Câu 29
Tương dục thủ thiên hạ nhi vi chi . Ngô kiến kì bất đắc dĩ . Thiên hạ thần khí , bất khả vi dã , bất khả chấp dã . Vi giả bại chi ,chấp giả thất chi .
Cố vật hoặc hành hoặc tùy . Hoặc hư hoặc xuy . Hoặc cường hoặc luy . Hoặc tải hoặc huy . Thịc dĩ thánh nhân khứ thậm khứ xa khứ thái .

Dịch nghĩa :

Muốn trị thiên hạ mà hữu vi thì ta biết là không thể được rồi .Thiên hạ là 1 đố vật thần diệu , không thể hữu vi , không thể cố chấp được . Hữu vi thì làm cho thiên hạ hỏng , cố chấp thì mất thiên hạ .
Sinh vật ( người ) hoặc đi trước (tích cực ) hoặc đi theo ( tiêu cực ) . Hoặc hà hơi ( cho ấm ) hoặc thở ( cho nguội ) . Hoặc mạnh hoặc yếu . Hoặc an hoặc nguy . Cho nên thánh nhân bỏ những cái gì thái quá .
&&&
Đại ý chương này cũng là trị dân nên vô vi tránh cực đoan mà cứ thuận theo tự nhiên . Vì người và việc đời đổi thay vô định , không thể làm theo ý riêng của ta được .
&&&

Ghi nhận :
Tất cả mọi con đường đều đến La Mã , có ý nghĩa là Đạo Đức hạnh Phúc .
Há chi ta phải bắt tất cả mọi người theo 1 con đường riêng của ta ? Mỗi người có những cách suy nghĩ khác nhau , những sức khỏe khác nhau , những chương trình khác nhau . Không thể dồn vào 1 khung cửa hẹp ? Gây sự ùn tắc náo động và chiến tranh .
Làm sai ngược ý muốn ban đầu là đến với hạnh phúc ấm no ?
Hữu vi là áp bức bắt buộc . Rất nhiếu con đường tới hạnh phúc ? Không chì 1 ?
Như vậy trở nên thái quá .
&&&

Thứ Ba, 27 tháng 11, 2007

hãy cho tôi hy vọng

Mấy ông ở ban hội đồng giáo dục quốc gia , trí thức đấy mình !!! mà đóng góp ý kiến cho sự nghiệp giáo dục VN cũng chả ai nghe ? Như nước đổ là khoai ? Thì dân đen như chúng tôi , ý kiến không có kí lô nào !
Thì sao ngày xưa ,ông cha ta có câu : quốc gia hưng vong thất phu hữu trách ?
Chả lẽ bây giờ dân đen không được phép yêu nước ư ?
Thôi rồi vận nước VN đi về đâu ? Giáo dục là căn bản . Mà như 1 mớ rối loạn … Tham nhũng thì như sóng dữ ? Không ai cản nổi !
Chỉ vì tham nhũng đã ăn sâu vào xương tủy ! Mối mọt đục khoét tan nhà nát cửa ! Sơn quét bên ngoài làm chi nữa . Phải thay đổi tận gốc rễ . Nền móng có chắc thì mới an tâm xây dựng đất nước !
Độc đảng mà hợp lòng dân thì mới hay .Còn trái nghịch ý dân thì giết dân …Vì chỉ lo cho 1 thiểu số , còn thì vơ vét cá dân tộc . Chúng ta đã và đang thấy … Ai cũng thấy , nhưng sao không thay đổi được ? Căn bệnh trầm kha ung thư , hết thuốc chữa chăng ? Đã đến lúc thần chết kêu gọi ?
Phải có 1 hội nghị diên hồng ! nếu không sẽ mất nước về tay ngoại bang . Phải làm công trả nợ vay quốc tế ! Phải cắt đất trả nợ vay quá hạn ! Phải cho người làm cu li xứ phi châu . để mà gán nợ vay quá hạn !
Thực dân thời đại mới !

Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2007

hòa bình ư ? ai cũng mong

Giáo dục như vậy thì khỏi nói .
Nguyễn Duy Cần xứng đáng là thấy của nhân loại .
Thời Bĩ , tiểu nhân đắc chí tiếu hi hi
Quân tử ở ẩn . Xem Chu Dịch Huyền Giải thật là thấm thía .
Kẻ bần cố nông , giai cấp thấp nhất được đứng đầu thiên hạ . Và có quyền ban cho người trí thức những lời nói không thể ngửi được !
Giống như lịch sử , Cao Cầu đứng đầu cả 1 nước , những nhân tài như Lâm Xung , Lỗ Trí Thâm , Tống Giang , và nhiều danh tài khác , Phải bị đi đầy nơi thâm sơn cùng cốc . Biên Cương hẻo lánh .
Nơi cung điện nguy nga , bọn tiểu nhân tham ô , hiếu sắc , cướp đoạt gia tài , ruộng đất của nhân dân .
Và hãm hại trung thần . Bóc lột máu mủ nhân dân .
Không thể có những người can gián như Chu văn An , để giúp giảm bớt sự tàn ác của bọn mặt người dạ thú !
Nhưng theo đúng luật trời đất . Chúng ta đang sống vào thời đại này , thì phải chịu thôi ! Ai biểu số phận như con rùa rụt cổ ! Cũng là do kiếp trước ta sống bê bối , tham tàn . Nay mới chịu hậu quả báo ứng nhãn tiền .
Không có nhân thì sao có quả .Không có lửa thì sao có khói !
Ta là cái quả ta làm kiếp trước . Bọn cầm quyền hiện tại , cũng là đang hưởng cái nhân làm kiếp trước . Đúng là câu nói : Đổi Đời . Đang làm quan , nay bị đi tù . Âu là số phận .Đang giàu , nay bị nghèo .
Còn dân chúng ? Cũng chịu ảnh hướng số phận do kiếp trước làm .
Người xưa bảo , không nên hùa theo kẻ sang giàu để mà tham chút cơm thừa canh cặn mà làm bậy . Sẽ chịu quả báo mà thôi
Không thể tránh được . Lưới trời tuy thưa mà khó lọt .
Hãy tu thân . nếu có ý kiến , hãy tranh đấu 1 cách bất bạo động và ôn hòa .
Chiến tranh là mối hại cho nhân loại
Phải cam chịu ,mà trả cho xong quả báo kiếp trước do mình làm .
Không oán trời , không oán người .
Công lí của trời bao giờ cũng công bằng .
Chi bằng hãy cho tâm hồn ta thanh thản , hòa nhập cùng đất trời . Bò qua hỉ nộ ái ố , tham sân si .
Lấy Đức báo oàn . Cam chịu khổ ải để trả nợ tội ác của kiếp trước .
Chứ đứng lấy oán báo oán , oán oán chập chùng . Lấy máu trả máu , tang thương thêm nguy hại .
&&&
Có 2 cách giải thích . nếu kiếp trước ta làm bậy , thì giờ ta bị nhục , thì quá đúng , ta đang trả nợ .
Còn nếu kiếp trước ta tốt , mà bây giờ vẫn bị đàn áp bóc lột tận xương tủy . Thì cũng ráng chịu đựng , chịu 1 thữ thách của kiếp này . Phật bảo : nếu ta không vào địa ngục thì ai vào ? Hãy tha thứ cho kẻ thù . Như Chúa bảo khi bị đóng đinh trên cây thập tự : Hãy tha thứ cho chúng nó vì không hiểu biết việc chúng nó làm !
Kiếp sau ta sẽ sống hạnh phúc ! nếu ta cứ tranh đấu lại , thì sẽ giống như thú vật mà thôi ! Giết hại lẫn nhau , kiếp trước qua kiếp này , kiếp này qua kiếp sau , và cứ thế chém giết nhau mãi , không bao giờ dứt !
Khổng Tử cũng bảo : Không giận trời , không oán người ! Khi bị cuộc sống vùi dập đau đớn khổ sở hơn 14 năm trời . Lang thang không quê hương . Và triết lí của Khổng Tử cũng bảo . Hãy lấy Đức báo oán . Có thế tương lai mới chung sống hòa bình !
Còn cứ tranh đấu như luật rừng xanh , thì không bao giờ có 1 ngày yên vui . Cho dù sống cả 100 kiếp . Cũng vẫn đau khổ như thường !
Chính ngay nước Mỹ . Cho dù giàu có , nhưng sự bất ổn vẫn dành cho đa số người dân nghèo trong nước , dù mức sống cao hơn dân nước khác . Ngay cả dân trên thế giới cũng bị ảnh hưởng .
Chỉ có vài % dân về hùa theo chính quyền mới có giàu sang .
Lấy bạo lực để dành hòa bình , là chuyện không bao giờ có , Chỉ là bạo lực nối tiếp bạo lực mà thôi !
Chỉ có bất chiến tự nhiên thành ! Dùng nhu thắng cương, dùng nhược thắng cường .

Lão Tử cũng bảo :Ta Không tranh thì ai tranh với ta ? Vì tham danh tham tiền tham quyền , nên tranh dành mưu hại lẫn nhau . Nếu ta không tranh dành mưu lợi , thì sẽ sống hạnh phúc !

Thứ Hai, 12 tháng 11, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 4.4

DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN
CHƯƠNG 4.4
Tóm lại , luật Tương ứng tương cầu ở đây , gồm có mấy điểm quan trọng sau đây ;
&) Hai vật Tương cầu tương ứng bao giờ cũng phải có chỗ tương hợp , nghĩa là Đồng thanh , Đồng khí thì mới có thể giao cảm phối hợp với nhau mà lập thành quần loại . Nhưng phải cần đến chữ Thời mới thực hiện được .
&) Vật , thì có vật thuộc Âm , hoặc thuộc Dương . Có khi Âm tìm Âm , Dương tìm Dương ( đồng loại ) . Có khi Âm tìm Dương , Dương tìm Âm ( vì lẽ tương cầu tương ứng ) mà xa lìa đồng loại . Đó đều là do sự cấu tạo của tạo vật , của hoàn cảnh chung quanh tùy theo nhu cầu của mỗi lúc khác nhau mà sinh ra . Nhưng cho đúng lẽ , phải có 1 Âm 1 Dương mới tương ứng . bằng cả 2 thuần Âm hay thuần Dương thì không thể ứng .
( Âm ngộ Âm , Dương ngộ Dương , bất ứng . Âm ngộ Dương , Dương ngộ Âm hữu ứng )
&) Vật được Tương ứng tương cầu mà phối hợp với nhau , cũng còn chịu ảnh hưỡng của những vật chung quanh , gần hoặc xa , mà biến đổi nữa . Không có vật nào hoàn toàn độc lập cả . Mỗi quẻ có thể xem như 1 Vũ trụ nhỏ . Trong đó sự sự vật vật liên quan chặt chẽ không khác nào 1 đại Vũ trụ : Thiên nhơn tương hợp hay hợp nhất .
&) Phải lưu ý đến địa vị cũa mỗi hào ( mỗi vật ) trong quần loại của nó . Có khi nó đóng vai trò chủ động , hoặc vai trò bị động , hoặc vai trò liên lạc . Không thể bỏ qua mà không nhận định rõ những điều
ấy .
&) Các hào ( vật ) ấy ở thời kì sơ , ( đầu ), trung ( giữa ) , mạt ( cuối ) , đều có những trạng thái riêng của nó . Sự Tương cầu tương ứng ở mỗi thời kì đều có những đặc tính của thời kì ấy .
&) Lại còn phải lưu ý đến hoàn cảnh thích nghi , gồm tất cả các điều kiện chủ quan và khách quan của nội ngoại hợp lại , gọi chung là Thời Trung . Có thể gọi đó là cơ bản cốt yếu của Dịch .
Mỗi hiện tượng đều phải trải qua 6 Thời tức là đi đến chỗ cùng . Đến Cùng tất nhiên phải có Biến , nghĩa là Biến để tồn tại và hòa hợp đồng nhịp với toàn thể : Sinh sinh chi vị Dịch .

&&&

Ta cũng nên lưu ý đến 2 tính cách Âm và Dương trong các cuộc biến hóa .
Trước hết nên nhớ Âm và Dương là cặp Lưỡng Nhất nghĩa là không có cái nào sinh cái nào , cái nào có trước cái nào , mà cả 2 đồng sinh . Nhưng về công dụng , thì Dương xướng Âm họa . Trong các cuộc biến hóa , bất cứ là 1 hiện tượng nào cũng đều do Dương điều khiển , mà Âm thuận tùng . Dương đi đến đâu thì Âm theo đến đó , cũng như trong y học bảo : Khí dẫn Huyết , Huyết theo Khí vậy .
Dương và Âm không bao giờ bị tiêu diệt … cho nên lúc nào cũng có lúc phản phục . Ở quẻ Phục , có nói : Phục hanh cương phản . ( có phục thời mới hanh thông , vì có hào Dương phản hồi ). Chữ Cương đây ám chỉ Dương , Dương là chủ động , nên sự phản hồi phải do Dương khởi xướng thì mới hanh thông .
Ở quẻ Phục , Dương quy định , Âm thuận tùng . mới có cái luật : thất nhật lai phục . ( 7 ngày lại hồi phản ) . Một hiện tượng nào , như ta đã thấy , đều phải trải qua 6 thời kì , tức là đi đến nước cùng , đi đến 1 vận hay 1 hội , sang đến thời thứ 7 thì dĩ nhiên phải phản hồi . Không phản hồi khi đến mức cùng , thì phải bị tiêu diệt , nhưng Dịch không chấp nhận sự tiêu diệt : Vật bất khả dĩ chung tận …Vật vô bác tận chi lí . ( Vật không thể bị tiêu hủy đến cùng … không cò lí nào vật bị hủy hoại đến cùng ) .

&&&&

Ghi nhận :
Nhưng vẫn có nước Chiêm Thành , và dân Da đỏ Mỹ châu bị tiêu diệt ? thì sao ? Dịch không có ở những nước này ư ? Vì cùng mà không biến thì …?
Vì không biến hóa hòa hợp , mà cứng nhắc chống đối đến cùng chăng ?
Nói trong 1 nước , nếu chỉ có 1 phe phái , thì không lên xuống thuận nghịch mà tồn tại ? Khi tiêu diệt đối phương , thì tự ta cũng tiêu diệt ta luôn chăng ? Âm Dương phải hòa hợp mới sinh sinh bất tận ?
Luật trời vô cùng huyền bí !

&&&&

Muốn hiểu rõ sự phản phục của Âm , ta hãy xét qua 2 quẻ Trạch Thiên Quải và quẻ Thiên Phong Cấu . Còn suy về sự phản hồi của Dương , thì hãy xem qua 2 quẻ Bác và quẻ Phục . Dương cực Âm sinh , Âm cực Dương sinh .
_ _ . __
__ .__
__ . __
__ , __
__ , __
__ , __
__ , _ _


Quải ,Cấu .

&&&&
Quẻ Trạch Thiên Quải có nghĩa là Quyết ( trừ diệt dứt bỏ ) : Quải quyết dã , Cương quyết nhu dã ! Kiện nhi duyệt , quyết nhi hòa .
( Quải nghĩa là quyết , Cương quyết trừ mềm , Mạnh mà vui thuận , cho nên quyết mà hòa )
Ta thấy nơi quẻ Quải , 5 hào dương dồn đến đường cùng hào Âm vào Thượng lục . Âm đã đến cùng , không thể trường cửu mãi , nên phải biến và phản phục “ trở về gốc “ ( phục kì thủy ) trở lại ở nấc dưới hào sơ làm thành quẻ Cấu . Sự phục hồi này thực hiện được là nhờ ở sự gặp được Dương . Nghĩa là quẻ Quải đã biến thành quẻ Cấu , là nhờ Dương vui thuận , cho nên tuy quyết mà hòa . Kiện nhi duyệt , quyết nhi hòa .. Chữ Mạnh ( kiện ) đây là ám chỉ Dương .
Ở quẻ Cấu có câu : Cấu , ngộ dã . Nhu , ngộ cương dã …Thiên địa tương ngộ , phẩm vật hàm chương dã .
( Cấu , tức là gặp gỡ . Mềm ( âm ) mà gặp cứng ( dương ) …Trời đất ( dương và âm ) mà gặp nhau , thì vạn vật mới hiện rõ ra được ).
Âm và Dương gặp nhau trong sự hòa lạc ( hòa dịch , lạc dịch ). Quan hệ là ở chỗ ( hòa ) đó .
Như vậy vai trò của Âm và Dương là : Sinh sinh bất tận . Còn vai trò của Âm là làm cho sự vật hiện ra rõ ràng . Tuy vậy , không có Dương thì Hình cũng không thể hiện , mà không có Âm thì Khí cũng không thể biến má sinh sinh cho được . Hai bên đều phải nương tựa với nhau luôn .
Thử xét 2 quẻ Sơn Địa Bác và Địa Lôi Phục ta sẽ thấy rõ thêm điều đã nói trên .
Bác , Phục :
__ , _ _
_ _ , _ _
_ _ , _ _
_ _ ,_ _
_ _ , _ _
_ _ , __

Trong quẻ Bác , 5 hào Âm lấn hào Dương lên tận cùng . Dương suy nhược , phải bị hủy . Nhưng Dương bị mất ở hào Thượng Cửu để trở lại phục hồi ở dưới sơ hào , làm thành quẻ Phục . Đó là Tử rồi Sinh, Sinh rồi Tử , tức là chỗ mà Dịch gọi là :Sinh sinh chi vị Dịch . Cho nên mới nói : Phục , thì hanh thông , vì Dương được phản phục . ( Phục hanh , cương phản ) . Nghĩa là , phục sinh lại được là nhờ có Dương .
Dương không bao giờ bị diệt , mà Âm cũng không bao giờ mất . Dịch lí không chấp nhận có sự thủ tiêu đối phương để mà đơn phương tồn tại .
Cái Động cực nhỏ ở quẻ Phục , là cái Cơ mà trước đây đã nói . Đó là cái lẽ sống đầu tiên của các cuộc phục sinh trong Trời Đất .
Phục , kì kiến thiên địa chi tâm hồ . Do lẽ Phục mà hiểu thấy được cái Tâm của Trời Đất Âm Dương . Cho nên chả phải ở trong tịnh mà thấy được cái Tâm của Trời Đất , mà chính ở lẽ Phục , tức là nơi cái cơ động tế vi của sơ hào quẻ Phục mới thấy được cái Tâm của Trời Đất . Trình Di nói : Tự cổ Nho giả ngôn tĩnh kiến Thiên Địa chi Tâm , duy mỗ ngôn động nhi kiến Thiên Địa chi Tâm . ( quẻ Phục ).
(Từ xưa nhà Nho họ bảo có Tĩnh mới thấy được cái Tâm của Trời Đất , chỉ riêng có ta đây lại nói rắng chỉ có động mới thấy được cái Tâm của Trời Đất Âm Dương ).
Bởi vậy trong Thuyết Quái Truyện mới có nói : Vạn vật xuất hồ Chấn . Chấn là nội quái của quẻ Phục tức là ám chỉ Dương phục sinh ở hào sơ quẻ Phục . Hào Dương ấy gọi là Cơ . Cho nên Đạo Dịch là Động , không phải Tịnh . Nhưng Động mà không loạn : Ngôn thiên địa chi chí động nhi bất khả dĩ loạn dã .
Cái khó ở Dịch là đây : Tịnh mà không phải hoàn toàn Tịnh tuyệt đối , còn Động không phải là Động vô cương kỉ .

&&&&&&

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 4.3

DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN .
CHƯƠNG 4.3
Nên biết rằng mỗi quẻ là tượng trưng 1 hiện tượng gồm tất cả các sự liên lạc , ảnh hưởng lẫn nhau , cảm thông với nhau giữa các hào cấu tạo nó , trải qua 3 thời căn bản của sự thuỷ chung của các sự vật : sơ , trung , mạt và qua 2 tầng thượng hạ .
Dịch tượng trưng Dương bằng 1 vạch liền (-- ) và Âm bằng 1 vạch nối ( - - ) . Mỗi gạch là 1 hào . Mỗi hào là 1 Thời của sự .
Tỉ như quẻ Kiền :
Ngoại : ( kiền thượng )
Mạt – hào thượng cửu ( hào thứ 6 )
Trung -- hào cửu ngũ ( hào thứ 5 )
Sơ -- hào cửu tứ ( hào thứ 4 )
Nội : ( kiền hạ )
Mạt -- hào cửu tam ( hào thứ 3 )
Trung – hào cửu nhị ( hào thứ 2 )
Sơ -- hào sơ cửu ( hào thứ nhất )
Thời sơ khởi : ở hào dưới chót (gọi là hào sơ cửu )
Thời thứ 2 : đứng trên 1 nấc ( gọi là hào cửu nhị )
Thời thứ 3 : gọi là hào cửu tam. ( 3 hào hạ tầng )
Thời thứ 4 : gọi là hào cửu tứ .
Thời thứ 5 : gọi là hào cửu ngũ .
Thời thứ 6 : gọi là hào thượng cửu ( 3 hào thượng tầng ) .
Nếu là quẻ Âm thì hào đầu gọi là hào sơ lục , và các hào kế gọi là hào lục nhị , lục tam , lục tứ , lục ngũ , thượng lục .
Quẻ Khôn :
Ngoại : ( khôn thượng )
Mạt - - thượng lục ( hào thứ 6 )
Trung - - lục ngũ ( hào thứ 5 )
Sơ - - lục tứ ( hào thứ 4 )
Nội ( khôn hạ )
Mạt - - lục tam ( hào thứ 3)
Trung - - lục nhị ( hào thứ 2 )
Sơ - - sơ lục ( hào thứ nhất )
&&&
Tại sao quẻ Dương thì gọi con số 9 ?
Tại sao quẻ Âm thì gọi con số 6 ?
Là vì con số 9 là con số của lão Dương ; còn con số 6 là con số của lão Âm . Phàm xem quẻ phải xem hào biến : Hữu động hữu đoán , vô động vô đoán . Bởi có già mới có biến , nên dùng lão dương và lão âm mà gọi tên .
Có 3 điểm cần chú ý :
&) Trong 6 thời của Sự , tượng trưng bằng 1 quẻ , hào Âm có thể chen vào chất Dương của quẻ , hoặc hào Dương có thể chen vào chất Âm của quẻ , và nhân đó mà đổi đại thể của quẻ .
Chất Âm hoặc chất Dương ở mỗi hào đều có tính chất đặc biệt khác nhau tuỳ cái Thời và cái Vị của nó . Và các hào đều ảnh hưởng lẫn nhau , hoặc trực tiếp , hoặc gián tiếp .
Ví dụ :quẻ Kiền ,6 hào đều thuộc Dương , và quẻ Khôn 6 hào đều thuộc Âm . Nếu có 1 hào Âm chen vào quẻ Kiền thì lại biến ra quẻ Thiên Hoả Đồng Nhân .
__
__
__
__
_ _
__

Nếu 1 hào Dương chen vào quẻ Khôn , thì trái lại biến thành quẻ ĐịaThuỷ Sư :
_ _
_ _
_ _
_ _
__
_ _

Bàn về ảnh hưởng lẫn nhau , nên để ý đến 3 Thời ,là Sơ ( đầu ) , trung ( giữa ) , Mạt ( cuối ) : tượng trưng thời gian thuỷ và chung của mỗi sự vật . Chia ra 2 tầng Nội , Ngoại là vì Đạo có 2 phần : phần quy định và phần phụ tùng . Dương chủ động , Âm chủ hoạ : nội vi chủ , ngoại vi khách .
&) Không những 1 hào Âm chen vào quẻ Dương , như ở quẻ Kiền , biến cái thể của quẻ Kiền , mà hào đó cũng ảnh hưởng đến những hào gần nhất . Đó là ảnh hưỡng tương cận , như hào cư Trung ảnh hưởng ảnh hưởng những hào Sơ và Mạt .
&)Lại cũng có sự ảnh hưởng vì quần loại giống nhau , như hào Sơ ở Ngoại quái và hào Sơ ở Nội quái ảnh hưởng lẫn nhau . Hào nhị của nội quái và hào Ngũ của ngoại quái ảnh hưởng lẫn nhau . Hào tam của Nội quái và hào Lục của Ngoại quái ảnh hưỡng lẫn nhau .
Như thế , ta thấy rõ nếu hiểu đến căn nguyên của 1 hào trong 1 quẻ thì hiểu được sự biến đổi của hào ấy đối với quẻ . Hiểu được sự liên lạc , ảnh hưởng và cảm thông của hào ấy đối với tất cả 5 hào trong toàn quẻ . Dịch gọi đó là : cực số tri lai , nghĩa là hễ biết rõ đượcsố biến ( cực là biến ) có thể tiên đoán được các sự việc khác sẽ xẩy ra do hào biến này gây nên . Tục ngữ thường nói : Bức dây động rừng , không có sự gì không gây ảnh hưởng đối với toàn thể chung quanh .
Đó là khái quát quan niệm về Dịch trong các cuộc biến chuyển cúa hiện tượng . Nhưng sự biến chuyển cuối cùng ( ở hào thứ 6 ) , tức là ở thời Thượng Cửu hay Thượng Lục là đặc biệt và quan trọng nhất , vì nó chấm dứt 1 cuộc chuyển hóa : Vật cực tắc phản , vật cùng tắc biến .

&&&&&&

Ghi nhận : Thật là hay ho vô cùng : 1 việc làm dù vô tình hay cố ý của ta ,đều gây ảnh hưởng cho mọi người xung quanh . Ý nói là Xã hội . Tí dụ ta thu vén tiền bạc , bỏ đầy túi riêng , dù bằng cách nào , cũng đều làm mọi người xung quanh hao hụt , thiếu thốn . Như nước chảy chỗ trũng . Không phải vô cớ mà khi 1 nước có nhiều đại gia nổi lên , thì đại đa số người nghèo cũng xuất hiện . Gây sự bất mãn của dân chúng . Chính vì thế , khi xưa , người ta tuyên dương chủ nghĩa quân phân tài sản , chia đều cho thiên hạ . Không gây sự giàu nghèo quá xa , mà đưa tới loạn li .
Kinh Dịch là sách gối đầu giường của bậc Minh Quân ,của các quan Tể Tướng và cũng của các quan địa phương , nếu muốn hoá bình thịnh trị , từ trên xuống dưới …
Hiện tại ,1 quan Huyện nhỏ bé ở VN , mà tài sản vô cùng to tát . Do tham ô mà có thôi ? Thử hỏi với đồng lương tối đa 3 triệu 1 tháng ? Làm sao đú ăn , huống hố xây 1 vi la đố xộ ?Tiền đâu ?Do chiếm đất công , tham ô móc ngoặc mà có !
Bởi thế Tham nhũng sẽ đưa VN xuống hố sâu !

&&&&&&

Chủ Nhật, 4 tháng 11, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 4.2

Dịch Học Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Chương 4 .2
TRUNG CHÁNH :
Ở quẻ Kiền , Văn ngôn có câu ; Đại tai Kiền hồ ! Cương Kiện Trung Chánh . ( Lớn thay quẻ Kiền ! Cứng bền trung chánh ) .
Có thể nói 2 chữ Trung Chánh là gồm nắm cả then chốt của Kinh Dịch.
Trương Kì Quân , trong : Trung Hoa Ngũ Thiên Niên Sử , có viết : Dịch giả hà dã ! Trung chánh nhi dĩ kĩ ! Sử thiên hạ chi bất trung , quy chi vu trung . Sử thiên hạ chi bất chánh quy chi vu chánh . Trung chánh lập nhi vạn vật nhi vạn biến thông .
Dịch là gì ? là Trung Chánh mà thôi vậy ! Khiến cho việc trong thiên hạ không trung trở về chỗ trung . Khiến cho việc trong thiên hạ không chánh trở về chỗ chánh . Trung chánh mà lập lại đặng rồi , thì cuộc biến hoá của vạn vật được thông vậy .
Nói cho đúng , trong vạn sự vạn vật , không có sự vật gì là không trung , không có sự vật gì là không chánh . Nghĩa là trong những sự bất trung bất chánh đều đã có sự trung chánh của nó rồi . Cho nên mới nói : Không có gì là không quân bình , ngay trong những điều xẩy ra không quân bình , thực sự là những quân bình tạm đang tìm cách lập quân bình chung của sự sự vật vật trên đời . Hay nói 1 cách khác , chính ngay trong những sự vật mất quân bình ta mới thấy rõ luật Quân bình của Trời Đất .
Cái Trung cái Chánh ấy là cái trọng tâm , cái trọng lực khiến cho cặp Âm Dương không bao giờ rời nhau được , vạn sự vạn vật không bao giờ dừng biến hoá .
Hệ từ thượng truyện viết : Biến hoá giả , tiến thoái chi tượng dã . ( Biến hoá là cái tượng tiến và thối ). Nhất hạp nhất tịch vị chi biến , vãng lai bất cùng vị chi thông . ( 1 mớ 1 đóng gọi là biến , qua lại không cùng gọi là thông ).
Hai chữ tiến thôi và vãng lai chỉ cho ta thấy cái động của đạo , không phải là cái động đi về 1 chiều , mà là cái động 2 chiều thuận và nghịch . Tất cả đều bị cái luật Trung Chánh nắm giữ không cho thiên hẳn 1 bên nào : thiên về Âm hay thiên về Dương . Đó là cái luật Phản Phục , 1 cái luật thường hằng bất biến , như trước đây đã có nói qua . Cái luật Trung ấy có thể tượng trưng ở cái trọng tâm bất dịch của 1 cái đòng đưa ( quả lắc ) , nó là luật Quân Bình .
Hào từ quẻ Thái có câu : Vô bình bất bí , vô vãng bất phục . ( không bao giờ có sự bằng phẳng mà không có sự chênh lệch , không bao giờ có sự đi qua mà không có sự trở lại . Nghĩa là trong các sự biến hoá của sự vật , không bao giờ có quân bình , nhưng chính vì sự thiếu quân bình mà luôn luôn có quân bình . Hay nói 1 cách khác , quân bình là 1 định luật vô hình ( hay siêu hình ) .
Tuy không thấy nó làm gì cả , mà chính nó ngự trị và chỉ huy tất cả mọi động tác trên đời . Nói theo nhà Lão , nó Vô vi nhi vô bất vi . Sự vật trên đời mà bình , không còn chênh lệch nữa , thì nước không chảy , mây không bay …vạn sự vạn vật sẽ đều ngưng đọng cả . Đó là cảnh chết . Bởi vậy Lão Tử đã dùng hình ảnh của Nước để tượng trưng Đạo ( hay luật quân bình ) rất khéo và rất khêu gợi .
Hào từ quẻ Phục có câu : Phản phục kì Đạo , thất nhật lai phục , thiên hành dã … Phục , kì kiến thiên địa chi tâm hồ ! ( Phản phục là Đạo , 7 ngày trở lại …đó là sự vận hành của Trời . Hiện tượng Phục cho ta thấy rõ cái Tâm của Trời Đất . )
Nói thiên địa chi tâm là nói đến cái đạo Trung Chánh của Trời Đất Âm Dương . Vì nhờ có cái Trung ấy nắm giữ mà 2 lẽ Âm Dương không thể rời ra . Ở Thoán truyện Hạ có viết : Nhật trung tắc trắc , nguyệt doanh tắc thực , thiên địa doanh hư dữ thời tiêu tức .
Mặt trời đứng bóng rồi thì xế , mặt trăng tròn rồi lại khuyết . Đạo của trời đất Âm Dương là đầy rồi vơi , cùng với thời gian mà tiêu ( mòn lần ) mà tức ( lớn dần ) .
Muốn hiểu cái lí của Trung , phải lấy quẻ Khiêm . Khiêm là cái khuynh hướng của vũ trụ vạn vật bao giờ cũng tìm lập lại quân bình đã mất . Quân bình đây , tức là Trung Chánh vậy .
Lời thoán của quẻ Khiêm có viết : Thiên địa khuy doanh nhi ích khiêm , địa đạo biến doanh nhi lưu khiêm , quỷ thần hại doanh nhi phúc khiêm , nhơn đạo ố doanh nhi háo khiêm .
Đạo Trời làm thiệt cho sự đầy mà làm ích cho Khiêm . Đạo Đất làm cho sự đầy biến đi mà làm hanh thông cho Khiêm . Quỷ thần làm hại cho sự đầy mà giáng phúc cho Khiêm , Đạo Người thì ghét sự đầy mà yêu thích Khiêm .
Dù là thiên đạo , địa đạo , nhơn đạo , quỷ thần … cũng đều ghét đầy mà ưa Khiêm . Nho hay Lão đều như Dịch đạo không ưa sự đầy , vì đầy thì đổ . Nhất là Lão Tử bao giờ cũng đề xướng sự Hậu Kì Thân , Bất cảm vi thiên hạ tiên . Làm căn bản trong vấn đề xử thế .
Lời Tượng quẻ Khiêm có viết : Địa trung hữu sơn : Khiêm , quân tử dĩ bầu đa ích quả , xứng vật bình thi .
Trong đất có núi , ấy là Khiêm , người quân tử theo đó mà bớt cỗ nhiều , thêm cỗ ít , cân lường sự vật để cho sự thi thố được thăng bằng .
Trình Di bàn về đoạn văn trên đây có viết : Không nói núi ở trong đất , mà nói trong đất có núi , là ý muốn nói rằng : trong chỗ thấp kém đã chứa sẵn cái cao cả của nó rồi … cho nên người quân tử xem đó để hễ thấy cao thì hạ xuống , thấy thấp thì nâng lên ,thấy rõ cái nghĩa : nén chỗ cao , nhấc chỗ thấp , bớt chỗ thái quá , thêm vào chỗ bất cập . Đem ra mà thi thố công việc thì rút bớt chỗ nhiều , bù vào chỗ ít … cân nhắc sự nhiều ít mà làm cho sự thi thố được đều nhau , mọi việc được thăng bằng .
Và phải chăng cũng là chỗ mà Lão Tử bảo : Thiên chi Đạo, kì du trương cung dư ? Cao giả ức chi , hạ giả cử chi , hữu dư giả tổn chi , bất túc giả bổ chi . Thiên chi Đạo : tổn hữu dư bổ bất túc .
Đạo trời ư? Khác nào cây cung mà giương lên : chỗ cao thì ép xuống ; chỗ thấp thì nâng lên . Có dư thì bớt đi , có bớt thì bù vào . Đạo của trời là : bớt chỗ dư , bù chỗ thiếu .
Như trước đây đã nói : Hào giả sự chi thời ; cho nên bàn đến chữ Thời , phải bàn đến chữ Hào .

&&&&&&

Ghi nhận :
Luật trời bao giờ cũng thế: bớt chỗ dư bù chỗ thiếu ! Mục đích là mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân . Không cho giàu nghèo cách xa nhau , mà gây sự tranh dành chém giết nhau . Bất cứ 1 nước nào , cho dù tiến bộ , nhưng nếu sự phân cách giàu nghèo quá xa , rốt cuộc cũng đem đến sự bất ổn chiến tranh …Cho nên không nên vơ vét cho đầy túi tham , huống hồ là vơ vét đám dân nghèo .
Thế nhưng lòng tham con người bao giờ cũng thắng ! Nghĩa là thời nào cũng có sự phân hoá trầm trọng , đưa tới tranh đấu đầu rơi máu chảy …Nếu không sửa sai , thì loạn sẽ tới .
Thế mới có nói : hết loạn tới trị , và hết trị tới loạn . Trừ phi con người tất cả là Thánh . Không Tham Sân Si !

&&&&&&

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 4.1

Dịch Học Tinh Hoa –Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Chương 4.1
THỜI :
Có thể nói , toàn bộ Chu Dịch tóm lại chỉ có 1 chữ THỜI mà thôi ( Chu Dịch nhất bộ thư , khả nhất ngôn nhi tế chi viết Thời ) .
Chữ Thời và chữ Cơ ở Chu Dịch rất là quan trọng . Cho nên thường được gọi là Thời Cơ ..
Nói đến Thời và Cơ ,phải lưu ý đến 2 chữ Cập thời . Hiểu được 2 chữ ấy đâu phải dễ .Ở quẻ Kiền Văn ngôn có viết : Quân tử tiến đức tu nghiệp dục cập thời dã , cố vô cửu . Người quân tử tiến đức tu nghiệp chỉ cầu hành động cho kịp thời , bởi vậy mới không lỗi lầm . Đó là tất cả bí quyết trong đạo xử kỉ tiếp vật của Chu dịch .
Lại cũng nói : Chung nhật kiền kiền dữ thời giai hành . Cả ngày chăm lo sốt sắng ,là muốn đi đúng với chữ Thời ,tức là đúng Thời và hợp Thời.
Bỏ mất chữ Thời , thì hành động nào cũng sẽ hỏng , có khi nguy hiểm cho xã hội và cho cả thân mình là khác .
Ở quẻ Kiền có câu : Kì duy Thánh nhân hồ ! Tri tiến thoái tồn vong chi đạo nhi bất thất kì chánh gia , kì duy Thánh nhân hồ !
Ôi chỉ có bậc Thánh nhân mà thôi ư ! Biết được cái đạo tiến thối , mất còn , mà không làm mất chỗ chánh trung của nó . Ôi chỉ có bậc Thánh nhân mà thôi ư !
Chữ Thời của Chu Dịch không phải là cái Đạo xu thời phụ thế , mà phải biết tuỳ thời mà thuận , tuỳ thời mà chống , để đừng làm mất đạo trung . Chữ Thời phải hiểu vời nghĩa như thế , tức là theo 2 nghĩa thuận nghịch của Âm Dương .
Thời là Biến , nhưng mà biến đúng Thời , theo đúng với đạo Trung ( bất biến ) nên mới nói : nhi bất thất kì chánh . Như thế ,cái đạo trung của Chu Dịch là biết giữ mức quân bình giữa 2 chiều thuận nghịch , nghĩa là chấp kinh mà cũng biết tùng quyền . Chấp Kinh là Thường đạo , tùng quyền là quyền đạo .
Ở quẻ Cấn ,Thoán truyện có viết : Thời chỉ tắc chỉ , thời hành tắc hành , động tịnh bất thất kì thời. kì đạo quang minh . Thời nên nghỉ , thì nghỉ ,Thời nên làm thì làm . Nếu động tịnh không sái thời , thì đạo mới được sáng tỏ . Bởi vậy mới nói : Dịch là quyển sách dạy ta cái đạo biết tiến biết thối, biết giữ cho còn , biết làm cho mất .( tri tiến thoái tồn vong chi đạo ).
Nhưng Thời cũng có 2 nghĩa : thời bên ngoài và thời bên trong . trong đạo xử thế , trước phải rõ cái thời trong ta . Rõ được cái thời trong ta , nhiên hậu mới có thể bàn đến cái thời bên ngoài . Nếu cái thời trong ta chưa được dự bị và thực hiện đầy đủ , thì cái thời bên ngoài dù có tốt đẹp bao nhiêu , cũng không nên bàn đến làm chi vô ích . Nói theo Binh thư , đó là cái đạo Tri kỉ tri bỉ .Thời bên trong và thời bên ngoài phải tương đương mới tương ứng : Đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu .
Bậc thức giả phải lo dự bị cái Thời bên trong để chời đợi cái thời bên ngoài mà hành sự ( như đã nêu ở hào sơ cửu quẻ Kiền ). Đã có không biết bao nhiêu cuộc cách mạng bên ngoài đổ vỡ , không thực hiện được đúng sứ mạng của nó , là vì cuộc cách mạng bên trong của nó chưa dự bị để theo kịp , để đáp ứng .
Ở hào 6 quẻ Kiền diễn rất rõ lẽ ấy : 6 hào của quẻ Kiền là tượng 6 Thời . Sáu Thời cũng lại phân thành Nội và Ngoại .Nội và Ngoại dùng làm biểu lí cho nhau , không thể rời nhau , nên mỗi quẻ gốm có 6 hào : 3 hào nội , 3 hào ngoại , tượng trưng Nội Thời và Ngoại thời . Trong 1 đơn quái cũng có Nội Ngoại : hào giữa là hào chính trung ,gọi là nội hào ,còn 2 hào trên dưới thì gọi là Ngoại hào .

&&&&&&&

Chú thích : Dịch không phải là duy tâm hay duy vật , như có nhiều người đã nhận định sai lầm . Dịch gồm cả Tâm Vật , là Nhất nguyên luận .
Nếu nhìn bằng cặp kính duy vật , thì chỉ thấy Dịch là duy vật . Duy tâm cũng thế .
Vì con người bị xé nhỏ , nên không có con mắt tổng hợp .
Con nhà Võ nói là : đả thông Nhâm Đốc nhị mạch .
Con nhà Phật gọi là : Đáo bỉ ngạn .
Ôi chỉ có Thánh nhân thôi sao ? Con người cứ tranh dành ngôi vị , thập nhị sứ quân …Loạn li mãi …

&&&&&&

Đứng về phương diện Vũ trụ luận , hay nhân sinh luận . Dịch không nhận có sự phân chia Nội Ngoại , Tâm vật …mà tất cả là 1 . Cho rắng Dịch học là Duy Tâm hay Duy Vật đều là sai lấm cả : người và xã hội là 1 , cũng như người và vũ trụ vạn vật không phải là 2 .
Nội Ngoại tương ứng 1 cách khít khao , cho nên luật Đồng thanh tương ứng , đống khí tương cầu , là 1 trong những quy luật quan trọng nhất của Dịch lí , như đã nói trước đây .
Bởi nội ngoại phải tương ứng và tương xứng với nhau 1 cách điều hoà , nên ở Dịch hệ từ mới có lời khuyến cáo sau đây : Đức bạc nhi vị tôn , trí tiểu nhi mưu đại , lực tiểu nhi nhiệm trọng , tiển bất cập hỉ . ( Đức mỏng mà ngôi cao , trí nhỏ mà lo việc lớn ,sức nhỏ mà gánh nặng ,thì ít khi thành việc ) .
Như trước đây đã bàn qua , chỉ có biến mới có đổi mới , nghĩa là phải có tử mới có sinh . Cho nên , nói sinh sinh là nói đến tử tử , như câu này ở hệ từ thượng truyện : Nhật tân chi vị thịnh đức , sinh sinh chi vị Dịch . ( Ngày 1 đổi mới , gọi là đức thịnh , sinh rồi lại sinh , gọi là Dịch . Có thịnh mới có cùng , có cùng mới có biến , có biến mới có chết , có chết mới có sinh , và sinh sinh bất tận )
Nhưng biến , không nên để cho đột biến mà nên để cho tiệm biến , nghĩa là biến từ từ . nếu để cho sự việc đến mức cùng , gây đột biến ( biến 1 cách đột ngột ) thì phần lợi ít mà phần hại nhiều . Nên chi cái đạo của Dịch cầu lấy chữ Thông làm gốc .
Muốn biến từ từ theo lẽ tự nhiên ( vì Dịch chủ lấy tự nhiên làm gốc ) để cho người ta biến mà không biết , hoá mà không hay , phải theo cho đúng thời , không nên quá sớm , cũng không nên quá muộn , không nên thiên hẳn vế 1 cực đoan nào cả ( bất thiên vu lưỡng cực đoan )
Tóm lại , nói về chữ Thời trong Dịch , là nói đến vấn đề Trung Chánh của Dịch . Tuy chia ra mà nói , sự thật nói đến Trung Chánh , tức là nói đến chữ Thời , cũng như nói đến chữ Thời , tức là nói đến Trung Chánh . Cho nên thường gọi chung là Thời Trung .

&&&&&&

Nhận xét :
Đừng cho cùng cực , nghĩa là thấy dân đói , không đủ sống , chính quyền phải thay đổi kế sách ngay . Đừng để cho cùng cực , dân phản ảnh , khiếu nại … Đưa tới li loạn …
Bởi thế ,chính quyền phải nhìn xa trông rộng ,đứng để xã hội bị xô đến cùng đường , như bần cùng sinh đạo tặc …Phải sửa đổi chính sách cho hợp lòng dân …
Dịch chỉ là thế mà thôi .

&&&&&&

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2007

kết chương 3

Dịch học tinh hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Phụ chú Chương 3.
Nếu phải lấy 1 cái đồ tượng để nói lên đạo Hằng ( bất biến ) và đạo Biến ( biến dịch ) của Dịch Đạo , thiết nghĩ chứa có cái đồ nào khêu gợi bằng cái hình tượng đòng đưa ( quả lắc ) sau đây .
Quả lắc chuyển động từ mặt qua trái , từ trái qua mặt , và sở dĩ có sự : đồng đồng vãng lai , là nhờ có trọng tâm ngay chính giữa nắm giữ quân bình ( trục thẳng đứng ) , không cho cái đòng đưa đứng mãi ở vị trí thái quá hay bất cập ( vị trí A 1 và A 2 đối xứng nhau : tượng trưng cho cái đạo Biến Dịch ) Cái đường dọc thẳng đứng tượng trưng cho cái đạo Bất Dịch .
Tuy không thấy nó chuyển động gì cả , nhưng kì thật là động cơ chánh của tất cả mọi sự chuyển động trên đời . Cho nên mới nói : Vô vi nhi vô bất vi . cái điểm giữa nơi gặp gỡ của 2 đường thẳng đứng và quả lắc , gọi là điểm hư vô , không Đông không Tây , không Nam không Bắc , không Thị không Phi , không Thiện không Ác … Bao nhiêu sự động chuyển đều do cái điểm hư vô này gây nên . Nó giống như cái lỗ hổng trên không trung thu hút rất mạnh không khí chung quanh . Cái Không sinh ra cái Có vì thế .( Hữu sinh ư vô ) .
Ở đồ bát quái ,Tiên thiên ( Hà đồ ) chỗ bất dịch ấy nằm ngay giữa 2 lằn kinh vĩ Kiền Khôn và Li Khảm tức là chỗ Thiên Địa chi tâm . Tâm con người mà ta thường gọi là Tâm Hư , cũng trụ nơi Vô Trụ đó . Nhà Phật gọi là : Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm . Chính cái trung tâm ( hư vô ) ấy chỉ huy tất cả mọi biến động trên đời , mà Lão Tử gọi là : Tam thập phúc cộng nhất cốc , đương kì vô hữu xa chi dụng .. Bao nhiêu cặp mâu thuẫn đối đãi đều bị tiêu huỷ nơi điểm Hư Vô ấy . Thiên Chúa Giáo dùng hình chữ Thập làm nơi an nghỉ vĩnh viển của chân tâm , Phật giào thì dùng chữ Vạn làm trung tâm của Niết bàn tịch tịnh , nguồn gốc của vạn hữu .
Cái điểm Hư Vô ở trung cung này thật là im lìm bất động ( vô vi ) chính là cái Tâm Hư , nhưng như đã nói trên đây , nó lại là cái nguyên động lực của mọi sự mọi vật trên đời , nghĩa là thấy thì nó không làm gì cả ( vô vi ) mà không 1 việc gì không do nó làm ra ( nhi vô bất vi ) Thiệu Tử nói : Cái Tâm thuần nhất thì không bị phân chia , như thế mới có thể ứng được vạn biến . Ấy sở dĩ người Quân tử giữ cho Tâm Hư bất động là thế .
Đó cũng là chỗ mà Lão Tử : Huyền chi hựu huyền , chúng diệu chi môn . Nhà Đạo thường gọi là Huyền Không .
Hai cái nghĩa , mới thấy như là mâu thuẫn của Dịch : là Biến và Bất Biến cũng gọi là luật Hằng Chuyển tức là Biến trong cái Bất Biến . Học Dịch mà không rõ được cái lẽ ấy , thì không nên bàn đến Dịch Lí làm gì . Vương Bật nói rất đúng : Tự kì biến giả nhi năng tri bất Dịch chi phương , nhiên hậu khả dĩ ngôn Dịch hĩ .
Từ chỗ Biến , mà biết được chỗ Không Biến , mới có thể bàn đến Dịch mà thôi .
Dịch đạo là đứng về phương diện Tu Thân , phải thực hiện cho kì được sự Hư Kì Tâm , triết lí của nó là triết lí của sự Điều Hoà , chứ không phải là thứ Triết Lí của sự Tranh Đấu để rồi phải có 1 cái này thắng và tiêu diệt cái kia .Thế giới của Dịch Là 1 cõi thế giới mà nguyên lí căn bản là sự Tương Đối , chứ không phải là thế giới của sự Tranh Đấu . Vì không có sự tranh đấu 1 mất 1 còn , cho nên cũng không có cái gì là mục đích cuối cùng phải đạt đến , hay 1 sự thắng trận nào phải thành công .
Cho nên mới nói : những cuộc đại thắng là những cuộc đại bại . Hễ vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản . Dương cực Âm sinh , Âm cực Dương sinh . Dịch , vì thế , chỉ có Biến , chứ không thể có tiến . Không Tiến , thì không có gì phải vội vã , phải bôn chôn , phải cướp thời gian , phải cúc cung tận tuỵ …mà hãy để tự nhiên . Cho nên Dịch mới có nghĩa là thay đổi 1 cáh tự nhiên . Chữ Dị , cũng có nghĩa Tự Nhiên .
Dịch là Tự Nhiên , nên Dịch cũng có nghĩa là dễ dàng ( Dị Giản ) không phiền phức . Nghĩa chữ Dịch là Bất Dịch hay Vô Vi là cái Đạo bớt sự phiền phức của cái Đạo đi ra cho nên mới nói : tổn chi hựu tổn , dĩ chí ư vô vi . ( bớt đi , rồi bớt đi nữa cho đến không thấy làm gì nữa cả ) tức là đến mức cùng tột là Dị Giản , là Hư Không , nghĩa là giản dị .( đơn sơ không phức tạp ) . Nghĩa của Vi Vi là thế , do cái ý bất dịch của Dịch mà ra.
Bất Dịch và Dị Giản hoặc Giản Dị , tuy cúng 1 ý mà có chỗ dị đồng : Bất Dịch là Thể , Dị giản hay Giản Dị là Dụng . Bởi vậy trong danh từ Trung Dung , chữ Dung có nghĩa là Dụng . Trung Dung là nói về cái Dụng của Trung đạo , trung thuộc về phần Tri , Dung thuộc về phần Hành . Trung Dung là Tri Hành hợp nhất của đạo trung . Dụng và thể là 1( tri và hành là 1 )
Ở chướng 8 hệ từ có viết : Dịch chi vi thư dã , nguyên thuỷ yếu chung dĩ vi chất dã . Dịch , là sách lấy sự Nguyên thuỷ yếu chung làm bản chất . Nguyên thuỷ yếu chung , là suy cầu nguyên nhân chính gốc ( thái cực ) để mà suy tầm cái kết quả cuối cùng . Suy cầu đến cái nguyên nhân chính gốc , tức là nói đến sự trở về cái gốc ,cái trung tâm bất dịch vậy .

&&&&&&

Ghi nhận : Sách dịch là sách dạy : tu thân , tề gia , trị quốc , bình thiên hạ . Bất cứ 1 người nào củng có thể hiểu được , tuy khó , nhưng chả lẽ ta lại kính nhi viễn chi ư ?
Chỉ vì không hiểu , đưa tới không thực hành , nên cuộc đời mới đầy những hỉ nộ ái ố . Đầy những tranh đấu liên miên , tàn phá cả tâm hồn con người lẫn xã hội ta sống .
Lợi càng cao thì hại càng to . Đó là luật ! Chúng ta chế ra xe hơi , honda , rất lợi , nhưng hại thì cũng có , ô nhiễm bầu khí quyển …chúng ta chế ra thuốc súng , cái này chưa thấy lợi , nhưng cái hại quá xá , chiến tranh và khủng bố …chế ra bom nguyên tử , mục đích chỉ là giết ta mà thôi ?
Nếu hiểu Dịch , chúng ta không mong chế ra tất cả những tiện nghi vật chất , mà sau này lại làm hại chúng ta ! Khoa học kỹ thuật ,chúng ta hoan nghênh cả 200 năm nay . bây giờ là lúc mà chúng ta nhận lãnh hậu quả khốc liệt của nó !
Không khí nóng lên , băng tan , ngập lụt , ung thư , đói kém chiến tranh …vì sinh đẻ quá nhiều do dục vọng nhiều …
Tri túc tiện túc , vì quá tham lam , ham tiến bộ , nên ta hăm hở khám phá , sáng chế biết bao nhiêu thứ , Thay vì biết đủ và bằng lòng với cái đang có . Nên nhân loại đang sa vào hố sâu , vực thẳm .

&&&&&

Tổn hữu dư bổ bất túc . Bớt chỗ nhiều , bù chỗ ít . Giờ là lúc cả thế giới nên ngồi lại , chia xẻ , hàn gằn vết thương , nạn thiên tai bão lụt , nạn nhân mãn ,đói kém , đã quá nhiều đau khổ .
Đừng gieo thêm chiến tranh , khủng bố . Bỏ Vũ Khí , bom đạn .

&&&&&



Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.3

DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN
CHUONG 3.3
BẤT DỊCH :
Dịch , lại cũng có nghĩa thứ 2 là bất dịch hay bất biến .
Là tại sao ? Là vì sự biến hoá ở mọi vật , bao giờ cũng diễn biến trong vòng trật tự , theo 1 quy luật bất di bất dịch .
Cái luật bất di bất dịch ấy , Dịch gọi là luật Thường nghĩa là Thường trụ bất biến .
Dịch truyện có câu : Động Tịnh hữu thường .( Động hay tịnh cũng đều bị cái luật thường chi phối ) .
Lại cũng nói : Ngôn thiên hạ chi chí động , nhi bất khả loạn dã . Tất cả sự vật dưới trời đều rất động ( nhưng nhờ có luật Thường chi phối mà sự động ấy không rối loạn . ĐạoThường tức là Đạo Trung , cái Đạo quân bình . Chính vì theo luật Thường ( bất biến ) ấy mà vũ trụ vạn vật biến hoá .
Cái đạoThường hằng bất biến ấy chính là cái căn bản của vũ trụ vạn vật , cũng gọi là Hoàng Cực . Cho nên mới nói : Dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hỉ . Cái lẽ biến hóa dưới trời thật là giản dị . ( Hệ từ thượng ) .
Ở hệ từ hạ ( chương 4 ) có nói : (Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ ) Tất cả sự vật dưới trời đều cùng về 1 mối , nhưng mỗi vật theo con đường của mình . Đồng qui tức là trở về nguồn gốc là Thái cực , nơi đó gồm cả Âm Dương lưỡng tính , tức là chỗ mà người Tây Phương gọi Nhất nguyên lưỡng tính động .
Cái đó , cái mà mọi sự vật dưới trời đều phải trở về đồng qui . Lão học gọi là Đắc nhất . Luật Thường ấy tuy thấy là không làm gì cả , mà thực sự nó chi phối tất cả , nó có mặt ở mọi cuộc biến hóa trong trời đất , nó bắt buộc không cho sự gì vật gì đi đến thái quá hay bất cập , nghĩa là hễ ; dư thì nó bớt , thiếu thì nó thêm . ( Bổ bất túc , tổn hữu dư ). Nó là luật quân bình . Nó vô hình , nó vô vi nhưng mà nó : Vô vi nhi vô bất vi . Thấy thì dường như không làm gì cả , mà không gì không có cái bàn tay huyền bí của nó xen vào . Cho nên mới nói : Huyền chi hựu huyền , chúng diệu chi môn .
Theo Triết học Tây phương từ Descartes đến nay , chủ luận của họ chính là thiên về Nhị nguyên luận , chia hẳn Trời và Người , Tâm và Vật thành 2 vật độc lập và đối lập , không thể dung nhau . Triết học Trung Hoa lại chủ trương khác : họ cho Trời và Người hoà hợp nhau làm 1 khối ( thiên nhân tương hợp ) và lấy sự thống nhất tâm vật làm tông chỉ , nghĩa là Dịch là Nhất Nguyên Luận hay Nhất Nguyên Lưỡng Tính Luận . Nhất Nguyên đây , tức là chỗ Bất di bất dịch vậy .
Trong : Trung Quốc Ngũ thiên niên sử ,Trương Kí Quân có phê bình về Chu Dịch rất xác đáng như sau : ( Dịch chi vi thư , quảng đại tất bị , vô sở bất bao nhi ngữ kì yếu qui , tắc vi minh thiên nhân hợp nhất chi đạo. )
Sách Dịch thật là bao quát mênh mông , nhưng đại khái cốt xiển minh chỉ có 1 lẽ Thiên Nhân Hợp Nhất mà thôi . Trong thoán từ quẻ Hằng có viết : (Thiên địa chi Đạo hằng cửu nhi bất dĩ dã … quan kì sở hằng nhi thiên địa vạn vật chi tình , khả kiến hỉ …) Đạo của trời đất là thường hằng vĩnh cửu , không bao giờ dứt … Xem cái thướng hằng ấy mà thấy rõ được cái tình trong trời đất muôn loài .
Chữ Hằng đây có nghĩa là cái lẽ : luôn luôn như vậy , không thay đổi . Cho nên người : ( quân tử dĩ lập bất dịch phương ) , người quân tử lấy đó làm chỗ đứng không thay đổi , tức là lấy chỗ bất biến ấy làm đạo Thường để mà ứng với mọi sự biến đổi trên đời .
Các triết gia Trung Quồc về sau đều công nhận cái luật Thường Hằng Bất Biến ấy , như Vương Bật trong Dịch lược lệ : vật nhiều đến thế , vậy mà vẫn đều được tồn tại , là vì cái làm chủ chốt của nó phải rất là nhất trì ; di động đến thế , vậy mà đều được chuyển vần , ắt là vì có cái nguyên thuỷ của nó không phải là 2 . Vật không lầm lẫn ( mà theo 1 trật tự ,1 qui luật nào đó ) . Ắt là do cái Lí của nó ,cho nên tuy phồn tạp mà vẫn không rối loạn , không lầm lẫn .
Trương Hoành Cử ( Tống ) cũng viết : Cái khí của Trời Đất Âm Dương biến hoá , co duỗi , tụ tán không biết đâu là chừng ; khi công , khi thủ , trăm đường khác nhau , nhưng cái Lí của nó bao giờ cũng thuận theo 1 đường , nghĩa là cùng theo 1 qui luật nhất định .
Cái luật ấy , luật Thường chi phối tất cả mọi sự mọi vật , nên gọi là Bất Dịch .
Trình Y Xuyên và Chu Hi của phài Dịch Truyện xem trọng cái Thường hơn cái Biến , cho cái Thường ( Bất Dịch ) mà họ gọi là Lí chẳng những là cái thứ tự trong cái Biến , mà còn là căn bản của cái Biến , làm chủ tể của cái Biến .
Chỉ có Trương Hoành Cừ thì cho rằng Biến là căn bản , quan trọng hơn Thường , nhưng Biền thì biền mà vẫn có điều lí , có trật tự theo 1 cái luật nhất định bất di bất dịch , là luật Thường . Như vậy vấn đề đã đặt sai : Biến có trước ,Thường nhân Biến mà có sau để điều lí , thì ra dù có trước , dù có sau gì cũng đều phải biến theo luật Thường cả .
Trang Tử cũng bảo : sự biến hoá không theo phương hướng nào nhất định cả , tiến hay thối , nhưng lại biến hoá theo 1 cái Cơ và kết luận : vạn vật đều ra nơi Cơ và vào nơi Cơ . Cái mà Trang gọi là Cơ , chính là cái Thường đó .

&&&

GIẢN DỊ :
Dịch cũng có nghĩa là Dị ( dị giản ) không phức tạp . Đó là cái nghĩa thứ 3 của Dịch .
Bất Dịch và Dị giản tuy cùng 1 ý , nhưng có chỗ phân biệt : Bất Dịch là nói về nguyên lí , Dị Giản nói về chỗ ứng dụng của Dịch Lí .
Nếu biết rõ được cái Lí bất Dịch của Dịch , thì cũng có thể hiểu được cái dụng giản dị của nó .
Trong hệ từ hạ chương 8 có viết : Dịch chi vi thư dã , nguyên thuỷ yếu chung dĩ vi chất dã . Dịch , là sách lấy sự nguyên thuỷ yếu chung làm bản chất . Nguyên thuỷ yếu chung , tức là Suy cầu Nguyên nhân chính gốc ( thái cực ) để mà suy tầm đến kết quả cuối cùng . Cũng như trong Đại Học nói : Vật hữu bổn mạt , sự hữu chung thuỷ , tri sở tiên hậu , tắc cận Đạo hĩ .
Vật có gốc ngọn , sự có sau trước , biết được đến chỗ trước sau của sự vật , đó là đã gần với Đạo rồi vậy . Câu văn này , có thể lấy 4 chữ : Nguyên thuỷ yếu chung mà giải thích .

&&&&

Với cái nghĩa Dịch là Dị , thì Dịch không còn là cái Đạo đi ra như với cái nghĩa Dịch là biến nữa , nghĩa là đi từ chỗ Nhất bản tán vạn thù .Từ Thái cực qua Lưỡng nghi , từ Lưỡng nghi qua Tứ tượng đến Vạn tượng phồn tạp nữa ; trái lại Dịch là cái đạo trở về , từ Vạn tượng trở về ngôi Thái nhất . Cũng chính là cái đạo trở về theo chủ trương của Lão Tử : ( Đạo viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản ) . Lớn là tràn khắp , tràn khắp là đi ra xa , đi ra xa là trở về . Chữ Đại ở đây là chữ Thái hay Thái Nhất , là cái 1 nguyên thuỷ . Cái 1 ấy biến , tức là đi xa ,và đi ra xa …rồi lại trở về . Chữ Phản này là Phản Kì Chân , trở về cái ngôi 1 .
Bởi vậy Dịch đạo gồm cả cái Đạo đi ra ( biến dịch ) và cái Đạo đi về ( bất dịch ) và ( dị giản ) . Tức là Đạo trở về ngôi Thái cực của mình . Hay nói theo danh từ của Đạo gia , thì Đạo ngoại là đi từ ngôi Tiên thiên qua hậu thiên , còn Đạo nội là đi từ ngôi Hậu thiên trở về ngôi Tiên thiên . Dịch đạo vì vậy cũng có thể gọi là đạo Nội Thánh Ngoại Vương ( tu thân tề gia , trị quốc , bình thiên hạ )
Trở về chỗ Dị giản ấy , Dịch gọi là Cơ ,1 lẽ huyền vi của Tạo hoá .
Trong hệ từ thượng có viết : Tri biến hóa chi đạo giả , kì tri Thần chi sở vi hồ . ( Biết được cái đạo của sự biến hoá phải chăng là biết được cái chỗ hành động của Thần . Chữ Thần đây cũng ám chỉ cái đạo của Nguyên Dương , hay là Nguyên Thần . Nguồn gốc Động của vạn sự vạn vật lúc sơ khởi ) . Dịch gọi là Cơ , tượng trưng ở sơ hào quẻ Phục . Cho nên mới nói : Phù Dịch , thánh nhân chi sở cực thâm nhi nghiên cơ dã .
Dịch , là cái mà bậc Thánh nhân đã nghiên cứu cái Cơ đến chỗ cực thâm . Bởi vậy mới có thể thông suốt đến cái chí của thiên hạ . Chỉ có cái Cơ đó mới thành tựu được việc của thiên hạ .Và chỉ đắc được cái Thần , cái Cơ đó mà việc làm tuy không vội mà mau xong , không đi mà đến chốn .
( Duy Cơ dã ,cố năng thành thiên hạ chi vụ , duy Thần dã , cố bất năng tật nhi tốc , bất năng hành nhi chí ).

&&&

(Âm Dương bất trắc vị chi thần ). Chữ bất trắc đây có nghĩa là lưỡng nhất và lưỡng tại , nghĩa là luôn luôn có mặt trong mỗi sự vật , không bao giờ lìa nhau . Cái này ẩn trong cái kia ,cái kia ẩn trong cái này .( Âm trung hữu Dương , Dương trung hữu Âm chi nghĩa ).

&&&

Ở hệ từ hạ chương 4 cũng có viết : Tri Cơ , kì Thần hồ ! Cơ giả , động chi vi , cát chi vi tiên kiến giả dã . Quân tử kiến Cơ nhi tác , bất sỉ chung nhật . ( Biết được Cơ phải là Thần chăng ?... Cơ là cái chỗ động rất nhỏ , là cái điềm lành mà ta thấy trước ; trước khi nó thành hình ; bậc quân tử thấy cái Cơ vừa máy động là tức khắc hành động ngay , không chờ qua hết ngày ).
Dịch là cái học tri Cơ, cùng lí tận tánh , trí dĩ tàng vãng , thần dĩ tri lai . Dịch rất chú trọng đến việc tri lai , và lấy đó làm đề chính yếu – hoặc bằng phép : cùng lí tận tánh - nghĩa là cùng lí ư sự vật , nghiên Cơ ư tâm ý .
Quân tử quý hồ tri Cơ , nghĩa là cầu biết cho đến mức Cơ vi , vì có biết được Cơ vi mới có thể biết được những điều sắp đến . Thấu được Nhân , là biết được cái quả của nó , nhưng phải biết được cái Nhân cùng tột của nó mới được . Ở đây ta thấy Dịch học là cái học tri lai mà người ta thường cho sách Dịch là sách bói .

&&&

Cơ , là ám chỉ cái điểm Dương nằm trong Âm , như cái mầm , tức là hào Dương nằm dưới ( sơ hào ) của quẻ Phục . Tịnh cực Động sinh . Cái căn bản của Vũ Trụ hiện tướng là Âm , nên gọi là Mẫu ( Quy Tàng Dịch , lấy quẻ Thuần Khôn làm căn bản Vũ Trụ ) sự sinh hoá bắt đầu bằng quẻ Phục . Chỗ sơ hào, nhất Dương sinh ấy , gọi là Cơ , cũng gọi là Cơ Vi , nghĩa là rất nhỏ . Tuy nhỏ mà cực lớn , vì nó là cái mầm của các sự sinh hoá sau này . Đó là thời Tiên thiên Âm hàm Dương mà Lão Tử bảo : vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương .

&&&

Khổng Tử về sau gọi cái công phu Tri Cơ này là : mặc nhi thức chi – ( lặng lẽ mà biết ) , công phu học hỏi của Thánh nhân là phải biết “ dò đến chỗ sâu kín nhất của tâm hồn , tìm chỗ u ẩn của nó , cũng như thả câu xuống vực sâu để mà vượt đến miền sâu thẳm nhất của tâm hồn , hầu tiếp xúc được với cái nguồn gốc ấy .
Cùng lí ư sự vật , thuỷ sinh chi xứ ,
Nghiên Cơ ư tâm ý ,sơ động chi thời .
Công phu nghiên Cơ là cần yếu nhất trong công việc học tập , nên chi học giả không nên dừng nơi văn tự , cái mà Trang Tử gọi là : cặn bã của Thánh nhân , và Dịch khuyên ta , trong khi nghiên cứu bất kì vấn đề nào , học giả phải biết thoát li văn tự hầu có thể : tinh nghĩa nhập thần .
Cho nên học Dịch , nếu chẳng đi vào chốn sâu thẳm nhất của cõi lòng , nghiền ngẫm xét nét cái lí của sự vật đến nơi đến chốn thì chưa có thể nói đến Dịch học . ( Dịch chi vi học , phi tiềm tâm chi thâm , ngoạn lí chi thục giả , vị Dịch ngôn dã )
Phải rửa sạch con tâm để đi sâu vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn , mà cũng chính là chỗ mà nhà Phật gọi “ kiến tánh “ và nhà lão gọi là “ kiến tố “.
Rửa sạch con tâm là bôi bỏ những thành kiến của xã hội đã tạo thành lâu ngày và đã che lấp con Tâm của mình . Ngày nay , khoa Tâm phân học của Tây phương gọi là khoa Tâm lí về bề sâu đã bắt đầu đi sâu vào Tiềm thức và Vô thức . Có lẽ về sau này khoa Tâm phân học của Tây phương sẽ giao cảm và gặp nhau được với Đông phương ở kinh Dịch .
Tóm lại , học Dịch là học cái phép Nghiên Cơ thám nguyên . Học giả Trung Hoa từ xưa đến nay không 1 ai là không căn cứ vào đó , nghĩa là không lấy đó làm cái tâm điểm tối trọng cho phép tu dưỡng ( tu tâm dưỡng tánh ) cũng như lấy đó làm phép tu học , nghiên cứu để đi đến chỗ : tinh nghĩa nhập thần , duy tinh duy nhất .
Cái Cơ là cái động cơ ở trong lòng người , tức là chỗ : Tưởng niệm sơ phát , cần phải gìn giữ cái chỗ : vị phát chi trung ; hầu có thể ngừa tà tưởng , không cho nó huân sinh huân trưởng nơi tiềm thức . Đó là công việc ngừa loạn , và trị loạn ngay lúc nó vừa manh nha trong lòng người và sự vật .
Câu phòng loạn hơn trị loạn của Đông phương cũng như câu : trị , là phòng ngừa , của khoa chính trị Tây phương đều cùng 1 nghĩa , cùng lí tận tánh của Dịch học .
Cùng lí và nghiên Cơ , là 2 việc làm bổ túc cho nhau , dùng làm 1 biểu 1 lí ( 1 ngoài 1 trong ) cho nhau , tức là chỗ mà Dịch gọi là : thể dụng kiêm cai , ( gồm cả cái thể và cái dụng ) và tri hành hợp nhất , mà về sau Vương Dương Minh lấy đó lập thuyết cho cái sở học của ông .
Nghiên Cơ và Cùng Lí hợp nhất , đó cũng là 2 thái độ hợp nhất của triết học đạo đức và khoa học thực nghiệm , nội ngoại tương ứng của triết học cổ kim cả Đông lẫn Tây . Hay nói 1 cách khác : nghiên Cơ là Tâm học , Đạo học , còn Cùng Lí là Lí học , Khoa học . Một bên thì : tận kì tánh ; 1 bên thì : cùng kì lí . Đó là tất cả nội dung lực hành của Dịch học , không thiên về bên nào cả , mà gồm nắm trong cái lí Thái cực ( nhất nguyên ) , Bất thiên bất ỷ .
Tất cả tinh hoa của Dịch học nằm gọn trong 3 nguyên tắc tối cao đã trình bày trên đây , khó thể giải bày cặn kẽ .Ta chỉ có thể ý hội mà thôi , vì Dịch có đến 3 nghĩa , biến hoá 2 chiều cuôi nghịch , nhưng tựu trung chỉ có 1 . Có lĩnh hội được cái lí ấy mới có thể hiểu được cái huyền nghĩa của Dịch mà thôi .
Thư bất tận ngôn
Ngôn bất tận ý .
Tóm lại : Dịch gồm cả cái Đạo đi ra và đi về , tượng trưng trong cái đồ hình dấu ngã .
Dịch là Đạo đi ra , là đạo biến ( theo nghĩa thừ nhất ) . Dịch là đạo đi về ( phản giả , Đạo chi động ) ; là Đạo bất biến ( theo nghĩa thứ 2 ) ( phản kì chân , phục kì bản )
Dịch Đạo là 1 ra , 1 vào ( 1 mở ,1 đóng ) như 1 hô 1 hấp . Cho nên , Dịch là nơi xuất phát của 2 hệ thống Triết học Trung Hoa : Khổng học và Lão học . Tuy chống nhau mà là bổ túc nhau , dùng làm biểu kí cho nhau .

&&&&&&

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.2

Dịch Học Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Chương 3.2.

LUẬT TƯƠNG ỨNG TƯƠNG CẦU .
Bàn về cái lí Biến Dịch , Chu Liêm Khê trong Thái cực đồ thuyết có viết : Nhị khí giao cảm , hoá sinh vạn vật , vạn vật sinh sinh nhi biến hoá vô cùng .
Vì 2 khí Âm Dương có giao cảm nhau , thì vạn vật mới hóa sinh ,vạn vật sinh rồi lại sinh nữa cuộc biến hoá mới trở thành vô cùng vô tận .
Hai chữ giao cảm này là then chốt của đoạn văn trên đây ..Nói Giao và Cảm là nói đến sự Tương Ứng ,Tương cầu . Nghĩa là có cầu mà không có ứng thì không có sự giao cảm ,cũng như có ứng mà không có cầu cũng không có sự giao cảm .
Chữ Tương ở Dịch rất quan trọng . Giữa nội và ngoại ,giữa ta và vật … có sự liên lạc mật thiết đến đỗi có thể nói con người là sản phẩm của xã hội vạn vật chung quanh cũng đúng .mà bảo xã hội vạn vật chung quanh là sản phẩm của con người cũng đúng . Dịch học gọi đó là luật : Thiên nhân tương hợp . Thiên nhân tương dữ . Trình Y xuyên cũng quả quyết rằng : Dịch , chỉ bàn có lẽ Thiên nhân tương hợp mà thôi . Thiên đây là thiên nhiên , là xã hội , là hoàn cảnh chung quanh , là vũ trụ vạn vật .
Dù là tự sinh hay tự hoá , nhưng kì thực là tương sinh ,tương hoá . Khi mà nội ngoại : tương thong ,tương nhập , thì chừng ấy mới gọi được là tự sinh tự hoá . Tự sinh tự hoá là nói về lí tuyệt đối Thái cực, còn tương sinh tương hoá là nói về giới tương đối nhị nguyên đang diễn biến vá hoá sinh .
Dịch kinh từ đầu đến cuối , không đâu là không nhắc đến cái luật Tương ứng tương cầu này như 1 cái luật then chốt của luật Âm Dương mâu thuẫn .
Hễ Âm Dương hoà xướng , đó là cái trạng Thái bình . Âm Dương xung khắc , là trạng bĩ loạn . Cho nên ở quẻ Đại Tráng có câu : Dịch , là hòa dịch , lạc dịch chứ không phải là nan dịch .
Hoà dịch , lạc dịch là biến mà thuận hoà , vui vẻ chứ không phải biến trong cảnh chống đối , gian khổ , hằn thù . Ở quẻ Kiền có nói : Kiền Đạo biến hoá , các chính tánh mạng , bảo hợp thái hoà . ( Đạo kiền biến hoá , vật nào cũng được đúng cái Tánh mạng của nó , gìn giữ được cái khí thái hòa của nó ).
Cái luật thường hữu , vĩnh viễn của trời đất là ở nơi sự : Bảo hợp thái hoà . Các chính là mỗi vật đều nhận được từ khi mới sinh . Bảo hợp là giữ được trọn vẹn sau khi đã sinh . Cái mà mỗi vật bẩm thụ gọi là tánh , cái mà trời phú cho gọi là mạng .
Điểm này rất quan trọng . Luật mâu thuẫn của kinh Dịch không phải là cặp mâu thuẫn Nan dịch mà là Hoà dịch hay Lạc dịch , không phải là cặp mâu thuẫn bị gián cách chống đối hẳn nhau và tìm cách để thủ tiêu lẫn nhau để đơn phương tồn tại . Thật sự là vì có sự ngăn cách .
( Như Bergson đã nói : Triết luận đâu có khó nếu ta đừng để có sự chen ngăn giữa ta và sự vật )
Ở quẻ Thái , Trình Tử có viết : Trời đất giao nhau , Âm Dương hoà xướng mà vạn vật phồn thịnh , vậy mới gọi là Thái .
Trong quẻ Phệ Hạp cũng nói : trong thiên hạ , trong 1 nước hay trong 1 nhà , cho đến muôn sự muôn việc , sở dĩ không hoà hợp lại được , là vì có sự ngăn cách . Bỏ cái ngăn cách đi , thì lại có sự hoà hợp . Đạo của Trời Đất , sự thành tựu của vạn vật đều phải có hoà hợp rồi sau mới hanh thông … Nếu có gián cách , ngăn cản , tức đó là yếu tố thứ 3 xen vào , ta phải tìm cách loại nó ra , nên nhớ và phân biệt : Cái yếu tố thứ 3 này không phải là cái khí Thái hoà , dung hoà 2 khí Âm Dương , mà chính là cái mà ở hệ từ hạ ( đệ 4 chương ) nói : Tam nhân hành , tắc tổn nhứt nhân , nhứt nhân hành , tắc đắc kì hữu . ( 3 người cùng đi , ắt phải bỏ đi 1 người , 1 người đi , ắt lại được bạn mình ) .
Cái yếu tố thứ 3 kia , là cái ngăn cách , phải bỏ đi để giữ lại cặp Âm Dương hòa xướng . Còn đi 1 mình , như 1 Âm hay Dương thì Âm cũng sẽ gặp bạn nó là Dương , mà Dương cũng sẽ gặp bạn nó là Âm .
Nên lưu ý về sự tương ứng của 6 hào trong mỗi quẻ : hào gọi là tương ứng phải 1 Âm 1 Dương . Nếu toàn là Âm hay toàn là Dương thì dù tương sinh cũng không sinh được , tương khắc cũng không khắc được . Đó là vô ứng , chứ không tương ứng . Luật tương ứng này rất quan trọng trong khi dùng đến ngũ hành : Dương mộc mới sinh được Âm hỏa . Dương thuỷ mới sinh được Âm mộc . Dù là ngũ hành cũng phải để ý đến Âm Dương .
Tóm lại , luật tương ứng tương cầu , có thể gồm trong yếu điểm sau đây :
2 vật mà được tương ứng tương cầu , phải có chỗ tương đồng , tương hợp thì mới có sự cảm thông và biến hoá , nhược bằng tương khắc đến mức không thể dung nhau được nữa , đó không còn là hoà dịch hay lạc dịch mà là nan dịch , vì đã bị gián cách .
Những phần tử trong vũ trụ vạn vật bao giờ cũng tìm bạn đồng thinh để mà tương ứng , đồng khí để mà tương cầu .
Đồng thinh , đồng khí có 2 trường hợp :
A) 1 Âm 1 Dương gọi lẫn nhau .
B) Dương gọi Dương , Âm gọi Âm .
Nhưng cả 2 trường hợp đều đồng vọng , đồng dộ , bằng không cũng khó mà giao cảm . Tức là chỗ mà trước đây đã gọi : nội ngoại tương ứng , và phải tuỳ thuộc chữ thời mới được . Chưa phải lúc , chưa đúng lúc , không hợp tình , không hợp lí , đều không thể có sự giao cảm và biến hoá . Phải tuỳ thời , mới thực hiện được .
Ở quẻ Kiền có nói : Đồng thinh tương ứng ,đồng khí tương cầu : thuỷ lưu thấp , hoả tựu táo …Bản hồ thiên giả thân thượng , bản hồ địa giả , thân hạ , các tòng kì loại .
( Hễ đồng thinh thì tương ứng , đồng khí thì tương cầu . Cũng như nước thì chảy về những nơi ẩm thấp , còn lửa thì tụ lại ở những nơi cao ráo … Vật gì gốc nó ở trời thì thăng lên , gốc nó ở đất thì giáng xuống ; mỗi vật đều cùng theo 1 loại với mình .)
&&&
Luật Đồng thinh tương ứng , đồng khí tương cầu , lại đưa đến 1 cái luật khác , là cái luật Thân Tị , nghĩa là khắn khít , liền bên nhau , mặc dù có nhiều sự vật bên ngoài ta thấy xa cách rất lớn .
Ở quẻ Thuỷ địa Tị có viết : các vật liền khít với nhau , thì không chi bằng nước trên mặt đất . Liền với nhau mà không có sự phân cách …Phàm vật đã sinh trong trời đất không có thứ gì là không dính liền nhau mà có thể tồn tại được . Tuy rất cương cường nhưng chưa từng có cái gì đứng 1 mình được . Theo Đạo Tị , thì 2 ý chí phải tương cầu lẫn nhau , bằng không tương cầu thì phải tan rã .
Trong quẻ Tổn ,Trình Di nói : Trong thiên hạ không có gì là không có 2 phần . Phần 1 và phần 2 tương đối với nhau . Ấy là gốc của sự sinh hoá .

&&&

LUẬT TÍCH TIỆM.
Trở lại vấn đề biến hoá , lại nên để ý đến sự định nghĩa của 2 danh từ ấy . Tuy vậy cả 2 đều cùng 1 nghĩa , nhưng cũng có phần khác nhau . Biến là biến lần lần 1 cách từ từ khó nhận thấy được 1 cách rõ ràng ; còn Hoá là cuộc chuyển biến đã được hoàn thành , đã trở nên hiển nhiên . Hay nói cách khác Biến là tiệm biến còn Hoá là đột biến .
Dịch hề tự ( Văn ngôn ) có viết : Thần thí kì quân , từ thí kì phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố , kì sở do lai giả tiệm hĩ . ( Tôi mà thí vua , con mà giết cha , cái cớ đâu phải trong 1 sớm 1 chiều , nguyên do lần lần mà đến vậy ).
Sự tiệm biến , Dịch truyện gọi là Tích , nghĩa là chấp chứa lâu dài… Thiện bất tích bất túc dĩ thành danh , ác bất tích bất túc dĩ diệt thân . ( Điều thiện mà không chấp chứa lâu thì không đủ để thành việc thiện , điều ác mà không chấp chứa lâu , không đủ để làm hại thân ).
Sự sự vật vật , xét về phương diện bên ngoài thì thấy như là im lìm bất biến , mà kì thực bên trong , không 1 giây phút nào mà không có sự thay đổi ( thay cũ đổi mới ) . Cái học nguyên tử ngày nay không nói khác hơn .
Cho nên động và tịnh tuy thấy là 2 việc khác nhau , kì thực chỉ có 1 . Không có cái Động nào mà không có cái Tịnh làm điều kiện tất yếu , như trong trò chơi thả diều : diều mà lên được cao là nhớ có sợi dây buộc chặt nó ở bên dưới . Diều mà không có cái sức trì xuống ( âm hay tịnh ) không thể lên cao được . Cho nên mới nói : cao dĩ hạ vi cơ . ( cao lấy thấp làm nền ) . Dương lấy Âm làm gốc , Động lấy Tịnh làm nền là thế .
&&&
Luật Phản Phục :
Như trướcđây đã nói , luật biến động của Dịch là Cùng tắc Biến . Nhưng biến cách nào ? Biến trở thành cái trước .
Hào từ quẻ Thái của Kinh Dịch có câu : Vô vãng bất phục . nghĩa là không có cái gì có đi mà không có trở lại .
Hào từ quẻ Phục cũng có câu : Phản Phục kì Đạo , thất nhật lai phục , thiên hành dã . ( Đạo phản phục , 7 ngày lại trở về , đó là hành vận của đạo trời . Phản đây , là trở về nơi khởi điểm .
Hệ từ thượng , chương 7 có câu : Biến hoá giả , tiến thoái chi tượng dã . Biến hoá , tức là cái hiện tượng tiến rồi lui . Tiến rồi lui , lên rồi xuống …qua qua lại lại mãi mà không thôi , như cái thoi dệt cửi .
Phản phục là luật quan trọng nhất trong Đạo Dịch mà nó cũng là căn bản trọng yếu nhất của học thuyết Lão Trang . Sách Trang Tử , ở tạp thiên có viết : cùng tắc phản , chung tắc thủy , thử vật chi sở hữu … ( Hễ cùng thì trở lại , hết rồi lại bắt đầu : đó là tình trạng mà vật nào cũng có ).
Hoài Nam Tử cũng nói : Tích vu nhu tắc cương , tích ư nhược tắc cường , quan kì sở tích , dĩ tri hoạ phúc chi hương .
( Chấp chứa cái mềm lâu rồi , thì thành cứng , chấp chứa cái yếu lâu rồi , thì thành mạnh . Cứ nhìn vào chỗ chấp chứa ấy để mà biết cái họa hay phúc )
Vì Vật cực tắc phản , nên luật phản phục khuyên ta : Nguy giả , an kì vị giả dã ; cong giả , bảo kì tồn giả dã ; loạn giả , hữu kì trị giả dã . Thị cố : Quân tử an nhi bất vong nguy , tồn nhi bất vong vong , trị nhi bất vong loạn . Thị dĩ thân an nhi quốc gia khả bảo dã .
( Nguy , là vì yên với ngôi vị mình ; mất , là vì chắc ở sự còn mãi ; loạn , là vì cậy ở sự trị . Bởi vậy , người quân tử lúc yên không quên lúc loạn . Nhờ vậy , thân mới được yên , mà nước cũng có thể bảo toàn được ).
Đó là do cái nguyên lí : Âm trung hữu Dương căn , Dương trung hữu Âm căn , mà suy gẫm việc thiên hạ . Lão Tử có lẽ nhân đó mà đưa ra nhận xét sau này : Họa hề phúc chi sở ỷ , phúc hề họa chi sở phục . ( Họa là chỗ dựa của Phúc , Phúc là chỗ núp của hoạ ).
Chỉ biết giữ yên địa vị mình mà yên trí là nó sẽ không bao giờ mất , thì sẽ có nguy . Chỉ biết giữ lấy chắc nịch cho mình , thì tất sẽ mất . Cho lả đã yên trị rồi mà cậy thế buông trôi không phòng giữ , thì tất sẽ có loạn .
Nghĩa là , ở trong cái yên đã nằm sẵn cái nguy , ở trong lòng cái còn đã nằm sẵn cái mất . Ở trong lòng cái trị đã chứa sẵn cái loạn . Bởi vậy , yên có thể trở thành nguy , còn có thể sẽ mất , trị có thể sẽ mất . Dịch học bao giờ cũng khuyên ta phòng loạn hơn là trị loạn .
Chung qui đều do luật phản phục . Luật ấy do cái nguyên lí đã nói trước đây , là vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản mà ra .
Dương Hùng trong sách Thái Huyền bàn về luật này cũng cho rằng ; hết thẩy mọi việc đều gồm trong 2 lẽ : chia rồi hợp , hợp rồi chia ( Nhất phán nhất hợp , thiên địa bị hĩ … Hoàn phục kì sở , chung thuỷ định hĩ …) Một chia 1 hợp ,Trời Đất đủ cả ở trong rồi … Trở lại chỗ trước , cái sau cái trước đều đã định rõ ở đây rồi ! Trong sách Ngữ Lục , Trình Y Xuyên cũng nhận như thế : Vật mà tiến đến chỗ cùng cực của nó , thì đi trở nghịch lại , lí là như thế . Có sống là có chết , có đầu là có cuối .
( Vật cực tắc phản , kì lí như thử . Hữu sinh hữu tử , hữu thuỷ hữu chung ) .
Tuy vậy , luật cực tắc phản không có nghĩa là phải đợi đến mức cùng cực của nó mới phản biến , mà thực sự , ngay trong thời kì sinh thành và thịnh vượng , sự vật cũng đã ngầm chứa mâu thuẫn đang âm thầm phá hoại bên trong rồi . Trong đồ thái cực , những điểm nhỏ âm nằm trong dương , dương nằm trong âm… là những chủng tử đối lập có 1 sức lực phá hoại đáng sợ .


&&&&&&


Ghi nhận :
Thế cho nên người xưa bảo , công thành thân thối , thật là hay . Mình làm to rồi phải nhường cho người khác làm , không nên tham quá ,. Mà tài sản nên phân chia cho khắp thiên hạ , mới bền lâu . Lúc xuống không bị ghét . Đừng để nước đến chân mới nhẩy , vì cuộc sống là thay đổi , hôm nay ta đúng , nhưng ngày mai ta sai ? Có ngờ đâu được ? Vậy phải thuận thiên hành đạo , lấy ý dân làm trọng . Ý dân là ý trời !
Như cố cưỡng lại , thì có được chăng sức nước vỡ bờ ?
Xưa Thương Ưởng ,Tần Thuỷ Hoàng đều theo dõi tư tưởng dân , xét nét từng hành vi , cũng là mong muốn biết trước cái ý dân , nhưng cách thi hành lại trái ngược ý dân , thay vì làm cho dân sung sướng … nên bị tan vỡ … cùng nhau đưa xuống chỗ bế tắc … thay vì khai thông mà làm ngược lại !
Than ôi kinh dịch đâu có dễ hiểu , có khi hiểu 1 đàng làm 1 nẻo ! Mà sai lầm chết người !
Chính vì thế , mà ta cần các bậc quân sư như Khổng Minh , Khương Tử Nha ,Quản Trọng … vì nhìn xa trông rộng , cân nhắc lợi hại…
VN bị kẹt xe , cũng là 1 tầm nhìn hạn chế , không tham khảo các nước khác !
Mà lại tham khảo vấn đề cờ bạc , casino , cá độ bóng đá ,cái mà ta chưa cần , phim ảnh sex , khiêu vũ …
&&&&&&

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.1

Dịch Học Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Chương 3 . 1
DỊCH LÀ GÌ ?
Có kẻ cho rằng nguyên tự là hội ý 2 chữ Nhật và Nguyệt , để chỉ sự luân chuyển biến hóa của Âm Dương . Đó là theo Thuyết Văn của Hứa Thận . Nhưng cũng có thuyết cho rằng Dịch là chữ tượng hình con tích dịch tức là con kì nhông. Con kì nhông là 1 loài thú sống trên cây , luôn luôn biến đổi màu sắc theo tời gian và không gian . Đó là tượng trưng chữ Thời và chữ Biến , căn bản của Kinh Dịch . Biến đây là biến theo thời gian và không gian .
Sách Luận Ngữ có chép : Tử tại xuyên thượng , viết : Thệ giả như tư phù , bất xả trú dạ . ( Phu Tử đứng trên sông nhìn nước chảy than : Cứ chảy mãi như thế này ư , ngày đêm không bao giờ ngừng )
Theo Trịnh Huyền Dịch gồm có 3 nghĩa : Biến dịch ,Bất dịch và giản dị .
A) BIẾN DỊCH :
Trong Hệ Từ có viết : Dịch , cùng tắc biến , biến tắc thông , thông tắc cửu . ( Theo Dịch , thì có cùng mới có biến , có biến mới có thông , có thông mới lâu bền ) . Chữ Cùng do chữ Thân , và chữ Cung tức là thân bị đè nén phải co rút lại như bị dồn vào 1 cái hang ( huyệt ) . Đó là sự vật bị dồn về tuyệt lộ . Nhưng sự vật có bị dồn về “ cùng đường “ tất phải tìm con đường đi ra ( thông ). Theo Dịch , điều đáng lo nhất là chữ Cùng .
Hệ từ thượng có câu : nhất hạp nhất tịch chi vị biến , vãng lai bất cùng chi vị thông . ( 1 đóng 1 mở , gọi là biến , qua rồi lại , lại rồi qua , và qua lại không cùng , gọi là thông ).
Ở quẻ Kiền cũng có viết : Kháng long hữu hối , cùng chi tai dã . Đó là cái hoạ của những sự vật khi bị đưa vào chỗ cùng . Vì vậy Lão Tử khuyên ta : Khứ thậm , khứ xa , khứ thái . Cái thái quá sẽ biến cái gì ta muốn thành cái nghịch lại với cái điếu ta muốn .
Ở Hệ Tứ hạ , chương 8 có câu : Vi đạo dã , lũ thiên biến động bất cư , chu lưu lục hư , thượng hạ vô thường ; cương nhu tương dịch , bất khả vi điển yếu , duy biến sở thích .
Đạo của Dịch là biến mãi , biến động không ở yên nơi nào cả , chu lưu khắp , lên xuống không ngừng , cứng mềm thay đổi lẫn nhau ,cho nên không thể lấy cái gì làm chủ yếu điển hình ( cố định ) mà chỉ biến để thích ứng hay thích nghi mà thôi .
Câu văn trên dây đã định nghĩa được 1 cách rõ ràng về huyền nghĩa của Dịch . Lũ Thiên là biến thiên dồn dập mau lẹ như sóng cồn . Cương Nhu Tương Dịch , là biến dịch không những tự sinh , tự hoá Âm hay Dương riêng ra , mà là 1 sự tương sinh tương hoá do sự ảnh hưởng lẫn nhau của Âm và Dương . ( Chữ cương và nhu , là ám chỉ Dương và Âm ) . Nói tự sinh , rồi lại nói tương sinh , phải chăng là nói mâu thuẫn .
Đúng , mâu thuẫn là định luật bất di bất dịch của Dịch Đạo . Phải nói Dịch là tự sinh mà cũng là tương sinh . Nghĩa là tương sinh , nhưng khi sinh thì gồm cả tự sinh . Đoá hoa hồng nhờ có những trợ duyên bên ngoài mà nở ( tương sinh ) nhưng khi nở thì nở hoa hường chứ không nở thứ hoa nào khác ( tự sinh ) .
Câu : Vi đạo dã … duy biến sở thích . Có 2 phần : phần đầu nói về tính cách biến dịch ; phần sau nói về cách thức của sự biến dịch . Sự bất thường của Âm Dương phản phục biến thiên , nên không thể giữ mãi 1 hình thức nào dùng làm điển yếu : bất khả vi điển yếu .

&&&

Chú thích : Lên xuống bất thường là do luật Phản Phục .
Lấy 2 quẻ Bác và Phục , ta nhận thấy rõ lẽ ấy : Dương ở hào cao vót ( thượng cửu ) , nhưng là đã dọn đường đi xuống ở quẻ Phục 1 cách bất thường ( sơ hào ) . Dương , tuy ở sơ hào quẻ Phục , nhưng là thứ Thiếu Dương , sức cường tráng bắt đầu tiến lên và làm mòn lần lực lượng của ngũ Âm . Thượng , không hẳn là cao , Hạ , không hẳn là thấp . Cho nên mới gọi : Thượng Hạ vô thường . Cũng có khi ,Thượng không thành Thượng , Hạ không thành Hạ , mà Thượng lại thành Hạ , Hạ lại thành Thượng , gọi là Âm Dương phản trắc .

&&&

Cũng vì Bất khả vi điển yếu , nên Thiền mới đề xướng : bất lập văn tự . nhà Lão đề xướng : bất ngôn chi giáo . Danh từ thuộc về tịnh giới ,Dịch thuộc về động giới , lại động biến 2 chiều xuôi ngược vô thường . Và cũng vì thế mà danh từ dùng trong kinh Dịch , cũng như trong các kinh sách Đạo học đều là cưỡng dụng cho nên phải hiểu đến chỗ ; ý tại ngôn ngoại , thư bất tận ngôn , ngôn bất tận ý . Phải biết : Tinh nghĩa nhập thần để mà : Dĩ trí đạo dã . Nghĩa là phải biết Thân nhi hoá chi , văn tự trong giời nhị nguyên tịnh để tìm hiểu cái động không ngừng của sự vật .
Tóm lại ,đạo của Dịch là Biến , cái gì ở 1 chỗ cũng biến , cái gì chu lưu cũng biến , cái gì vô thường cũng biến , cái gì đối lẫn nhau cũng biến . Cái gì cũng biến , thì không có cái gì có thể dùng làm điển yếu cả .
Duy biến sở thích , là biến để cho : nội ngoại tương ứng với nhau . Dịch hệ từ Hạ ( chương 4 ) mới bảo : Đức bạc nhi vị tôn , trí tiểu nhi mưu đại , lực tiểu nhi nhiệm trọng , tiễn bất cập dĩ .
Đức mỏng mà ngôi cao , trí nhỏ mà mưu việc lớn , sức yếu mà gánh vác việc nặng , khó mà thành công . Lại còn nguy đến bản thân ,luôn cho cả xã hội chung quanh là khác .
Cách mạng bên ngoài ,vì vậy , cần phải đi đôi với cuộc cách mạng bên trong , cả 2 cuộc cách mạng phải tương ứng , tương thích , bằng không , cuộc cách mạng bên ngoài chỉ có cái hình thức hữu danh vô thực , không đủ sức hoá được bên trong , cũng như làm những cuộc cách mạng bên trong mà không có những cuộc cách mạng bên ngoài làm trợ duyên cũng khó mà thành công . Anh hùng tạo thời thế , đồng thời thời thế tạo anh hùng ,phải luôn bổ túc cho nhau . Đây là cái luật chung cho tất cả , bất cứ ở hình nhi hạ hay hình nhi thượng , nới đạo tu thân hay xử thế .Tương dịch mà cũng tự dịch .
Câu : Cương nhu tương dịch , gồm nắm hết phần trọng yếu của nghĩa thứ 1 của Dịch rồi .

&&&&&&&

LẼ BIẾN HOÁ :
Kinh Dịch nói biến , mà cũng nói hoá . Có khi lại nói chung : biến hoá , như nói : Cương nhu tương thôi , nhi sinh biến hoá . ( Mềm cứng ma sát nhau mà sinh biến hoá ) . Hoặc , tại thiên thành tượng , tại địa thành hình , biến hoá kiến dã . ( Ở trời là tượng , ở đất là hình , trông tượng và hình ấy mà ta thấy được sự biến hoá vậy )
Nhân có biến hoá mới có sự thay cũ đổi mới ( cách mạng ) . Hệ từ thượng chương 4 có nói : Nhât tân chi vị thịnh đức , sinh sinh chi vị dịch . Ngày 1 mới là đức thịnh , sinh rồi lại sinh gọi là Dịch .
Đức thịnh là Đức đến độ cực thịnh mới có thể biến đổi , biến cái cũ thành cái mới ( mà Lão Tử bảo : Tệ tắc tân : cũ ắt biến thành mới ) . Chữ sinh sinh là cái đạo cực động của Trời Đất . Hai chữ sinh sinh đã bao hàm cái ý tử tử , vì có sinh là có tử , mà có tử là đã có sinh . Phải có cái tử của cái sinh trước , mới có thể có được cái sinh sau , và như thế đến vô cùng . . Phải có tử mới có sinh ,cho nên tử tức là biến , nghĩa là hoá . Người sau dùng chữ hoá để chỉ sự chết .
Chữ sinh đây là nói về cái ý Nhất dương sinh của quẻ Phục đi tiếp theo quẻ Bác . Và như thế , 2 chữ sinh sinh đã diễn đạt rõ rệt 2 chữ biến hoá bất tận rồi của Dịch đạo . Theo Dịch , vì vậy không có chỗ nào dành cho cái chết cả . Hay nói cách khác , Dịch không tin có cái chết tuyệt đối , cái chết vĩnh viễn . Cái mà ta gọi là chết , chỉ là những cái chết bên ngoài , thay hình đổi xác , như cội cây qua thu là rụng mà không hề hấn gì đến thân cây , sự sống của các lá rụng trở về thân cây đợi qua xuân khác thì đâm chồi nẩy lộc . Cái nhìn của Dịch là cái nhìn tổng quát , chỉ thấy sự gì vật gì như là 1 Thái cực .Có 1 cái sống luôn luôn trường tồn mà Lão Tử gọi Tử nhi bất vong cho nên người ta chết ,là bỏ cái tiểu ngã mà trở về Đại ngã . Nghĩa là trong hư không mà ra , và nơi hư không mà trở về .
Về chữ Đức trên đây , không nên hiểu theo nghĩa thông thường của luân lí , mà phải hiểu nó là 1 danh từ siêu hình ám chỉ tất cả những hiện tượng của cái Lí Thái Cực . Đức đây gồm cả Âm Dương , Thiện Ác đồng 1 nghĩa với chử Đức mà Lão Tử dùng trong Đạo Đức Kinh .
Hai chữ Nhật Tân chứng minh Dịch là 1 thứ tư tưởng Động , không chấp nhận có sự im lìm . Bởi vậy , danh từ dùng để chỉ định 1 sự vật hữu hạn không thể còn dùng được nữa để nói lên sự biến hoá vô tận của sự sự vật vật trên đời . Dịch Kinh bởi thế mới có câu : Thư bất tận ngôn , ngôn bất tận ý .( Hệ từ thượng , chương 11 ) .
Đọc Dịch không nên quá chú ý đến Từ , mà nên lưu ý trước nhất đến Tượng của nó . Tượng là cái Ý gợi ra do Tượng mà có . Trình Di trong bài tựa quyển Chu Dịch có viết : Tiên Nho bỏ Ý để truyền lời . kẻ hậu học thì đọc lời mà quên Ý : Dịch , vì thế đã thất truyền từ lâu .
Trong Dịch Tuyết Cương Lĩnh cũng nói : Phục Hi vạch 8 quẻ , chỉ có mấy nét , bao quát hết lẽ muôn vật . Kẻ học Dịch mà hiểu được ở Lời thì nông , hiểu được ở Tượng thì sâu . ( Chu Hi )
Giớ đây , xin trở về vấn đề Biến và Hoá . Sự Biến Hoá làm cho thay đổi cả tính chất , làm cho hình hoá khí , khí hoá hình … và cứ thế lien miên bất tuyệt .
Trang Tử , trong thiên Đại Tông Sư cũng chủ trương như Dịch rằng : Vạn Hoá nhi vị Thuỷ , hữu cực dã . ( Muôn biến vạn biến mà chưa từng bao giờ cùng ) . Ông lại nói : Vật chi sinh dã , nhược sậu nhược trì , vô động nhi bất biến , vô thời nhi bất di .
Vật sinh ra , biến đổi thình lình , hoặc mau hoặc chậm , không có 1 cái động nào mà không có biến , không 1 lúc nào là không đổi dời . Chủ trương này của Trang cùng với của Dịch là 1 . Liệt Tử cũng nói : Sinh giả bất năng bất sinh , hoá giả bất năng bất hoá , cố thường sinh thường hoá . Thường sinh thường hoá giả , vô thời bất sinh , vô thời bất hoá .
Sinh là không thể không sinh , hoá là không thể không hoá cho nên thường sinh thường hoá . Thường sinh thường hoá là không lúc nào không sinh , không lúc nào không hoá . Đó là cái lẽ : bất đắc bất nhiên ( phải vậy , ví không phải vậy , không đặng ) .
Sự sinh sinh hoá hoá , đâu phải chỉ xảy ra trong sự vật , mà ngay nơi bản thân , nơi nội tâm ta đây , luật sinh sinh hoá hoá , vô thường cũng nhận thấy được rất rõ ràng 1 cách công khai hay tiềm ẩn .
Trong sách Trang Tử , Huệ Thi cũng nói : Nhật phương trung phương nghê , vật phương sinh phương tử . ( Bóng mặt trời chưa đứng là đã chênh , mọi vật đang sống là đang chết ).
Bình về cái lẽ : phương sinh phương tử , Quách Tượng bảo : Nói về cái lực mà không có lực , chả còn có cái gì mạnh bằng cái lực của sự biến hoá … Trời đất không lúc nào là không biến đổi . Thế sự đã đổi mới , mà cứ tưởng là còn cũ . Chiếc thuyền từng buổi từng đổi khác mà cứ tưởng nó vẫn như xưa . Trái núi từng ngáy từng đồi khác , mà cứ xem nó vẫn trơ trơ như trước . Hiện tay đang khoác tay mà lòng đã thay đổi ! Đều là ở những nơi sâu kín nhất của tâm hồn .
Cái ta trước đây không còn là cái ta hiện tại , cả cái ta và cái hiện tại đều qua , hà có thể còn giữ mãi được cái cũ mà được đâu ! Vậy mà thế nhân lại đâu biết được điều đó , cứ lại bảo rằng cái hôm nay gặp gỡ có thể buộc lại mà giữ mãi không mất , như thế há chẳng phải là ngu muội lắm hay sao !
Lời bình luận trên đây thật là xác đáng .
Khoa học nguyên tử ngày nay của Tây Phương cũng xác nhận cái thuyết : Hình hoá khí , Khí hoá hình , là đúng khi các nhà khoa học nguyên tử tuyên bố : vật chất là khí đọng lại mà thành hình , khí là vật chất tan ra mà thành khí . Hay nói 1 cách khác : Người ta có thể nói rằng khí lực và vật chất là 1 , hoặc là 2 bộ mặt của 1 thực thể
Tóm lại , sự sinh hoá của sự vật có chậm có lẹ , có khi mau lẹ đến đỗi trong 1 niệm của hiện tại là đã đi vào dĩ vãng rồi …lẹ hơn cái tia chớp trên nền trời tối mịt . Quan niệm biến dịch và sinh hoá này … đã ảnh hưởng rất sâu xa các nhà tư tưởng Trung Hoa về sau . Các triết gia đời Tống đến đầu đời nhà Thanh đều đã chịu ảnh hưởng cái nguyên lí biến dịch này của Dịch .

&&&&&&&

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2007

trở về mái nhà xưa

cuộc sống như 1 dòng sông chảy mãi không ngừng
không biết thay đổi thì như nước tù đọng , ung thối và độc hại
cũng như dòng máu trong người ta , phải thay đổi hàng ngày
xã hội cũng vậy , cuộc sống thì nhanh như tên bắn , nhưng ta thấy lại chậm như rùa
chưa có gì thay đổi , nếu dân tự thay đổi được không ?
không hề , vì dân chỉ là người thừa hành
nếu thay đổi sẽ phạm phải luật pháp , vì luật pháp nên đi trước 1 bước
nhìn xa trông rộng , nếu không thay đổi chế độ ăn uống ,đứa bé sẽ không lớn nổi
cho nó ăn cháo hoài sao ? phải cho nó ăn cơm , ăn rau và ăn thịt
pháp luật cũng thế ,phải tiến bộ không ngừng ...

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2007

quẻ Kiền

Quẻ Kiến
. Quẻ Thuần Càn
Nội quái, ngoại quái đều là Càn.


乾: 元, 亨, 利, 貞. Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Dịch : Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền. Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Về sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền là Khổng tử , nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời. Trời có đức “ nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) . Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử . người quân tử có bốn đức. Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời. Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời. Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời. Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời. Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi. Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi. Hào từ :Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.
初 九: 潛 龍 勿 用 Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.
Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 . Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi. Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân). Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2. 九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎. Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi. Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2
九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎. Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi. (Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi). Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định. Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi. Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được. Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.
九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人. Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Giảng : Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua). Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi. Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).
上 九 . 亢 龍 有 悔. Thượng cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận. Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu). Văn ngôn : giảng thêm: Hào 6 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn ngôn, tác giả Hệ Từ truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII, Tiết 9). Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 . Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt. Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó. J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu. Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi. - Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”. Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ? - Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt. Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn. - Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được. - Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa. Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu” Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . . Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.
*

PHỤ LỤC
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh. - Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn) “rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.” - Tào Thăng (sách đã dẫn). “người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .) Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp). - Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối: “con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành. Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.

hết: I. Quẻ Thuần Càn, xem tiếp:
2. Quẻ Thuần Khôn

đánh máy: Huyền Băng, sửa chữa và hiệu đính: Trương Củng, vnn, mọt sáchNguồn: Vnthuquan-Thư viện Online
&&&&&&&&&
( So sánh 2 người nói về quẻ kiền ,xem có gì hay )
&&&&&&&&&
Dịch kinh linh thể 4 – Kim Định – Triết lý an vi –
VI. NHỮNG CHẶNG TIẾN CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI THEO QUẺ KIỀN
Sau khi đã nắm đựơc mấy điểm then chốt về Kinh Dịch thì bước thứ nhì phải học về tiến trình chuyển hóa của tâm thức con người . Vì đó chính là tinh hoa của Kinh Dịch . Lộ trình tiến hóa đó được đề cập ngay ở đầu quyển Kinh nơi quẻ Kiền với lời Kinh như sau :
Kiền . Nguyên , Hanh , Lợi , Trinh .
Chữ hán
1. Sơ cửu : tiềm long : vật dụng
2. Cửu nhị : hiện long tại điền , lợi kiến đại nhận .
3. Cửu tam : quân tử chung nhật kiền kiền , tịch dịch nhược lệ : vô cữu .
4. Cửu tứ : hoặt dược tại uyên : vô cữu .
5. Cửu ngũ: phi long tại thiên : lợi kiền đại nhân .
6. Thượng cửu : kháng long hữu hối .
7. Dụng cửu : hiện quần long vô thủ : cát .
Chữ hán

Ðó là trang đầu của Kinh Dịch , có thể đại biểu cho cả sách . Chúng ta thầy một lối văn kỳ lạ , và nếu đừng về lý trí suông thì đó là một đoạn văn nhát gừng không cho thấy được gì đáng lưu ý đặc biệt , nhất là sau thời kỳ người Viễn Ðông được nuôi dưỡng trong cái học duy lý thì càng thấy xa lạ . Nhưng đã nói nội dung Kinh Dịch có tính chất lưỡng thê , nên không được dùng lý trí suông để tìm hiểu , vì như vậy sẽ chỉ thấy được có một chiều . Vậy phải dùng lối quan lối ngoạn , và lúc ấy sẽ nhận ra đó là một nền Minh triết linh động uyển chuyển . Quẻ Kiền đưa ra bốn chặng nền móng trong 4 chữ Nguyên Hanh Lợi Trinh .
Nguyên là điểm khởi phát
Hanh là chặng phát huy hanh thông
Lợi là chặng tựu thành
Trinh là kéo dài thành quả.
Nhìn qua bốn chặng trên chúng ta liền nhận ra tính chất phổ biến hay là vũ trụ theo nghĩa phi thời gian nên là miên tục trường tồn . Ðó cũng gọi là vòng trong . Trái lại vòng ngoài thuộc những sự vật bé nhỏ riêng rẽ có hình thể thì quá trình tiến triển đi theo tứ tự : sinh , thành , suy , hủy . Vì Kinh Dịch chuyên nói về vòng trong nên trình bày quá trình biến hóa của cuộc đại diễn thuộc vòng trong , nên không nói sinh , thành , suy , hủy nhưng nói nguyên , hanh , lợi , trinh . Bốn chặng tiến hóa chung này sẽ được quảng diễn trong 4 hào 2, 3, 4, 5 như sau :
Hào 1 - 6 : hào 1 và 6 đều nói lên chỗ quá đáng nên bảo đừng dùng : " tiềm long vật dụng " . Long là con vật thuộc huyền thoại không ai thấy , nên Kinh Dịch dùng để chỉ cái đức , cái linh lực , hay là cái nguyện vọng sâu thẳm nơi con người hướng đến trạng thái viên mãn tròn đầy cũng gọi là Ðạo Thể Viên Dung . Bao lâu chưa xuất hiện cái tâm thức đó thì không nên dùng : " tiềm long vật dụng " . Nói về triết thì bao lâu chưa đạt tâm trạng nhân bản tức là biết trọng nhân phẩm và tự do con người và tìm cách phụng sự con người mà đã vội dùng ngay những dữ kiện của giác quan để lý luận , tạo tác ra các triết thuyết , thì đó sẽ chỉ là cái học trục vật : y như đất là đất trải rộng ra trước mắt , bên ngoài con người , hoàn tòan hàng ngang sẽ thiếu chiều dọc tâm linh, nên là duy vật . Tiềm long là rồng ẩn còn dưới đất . Chữ đất hay ruộng là do hào 1 , 2 thuộc về địa .
Hào 6 cũng thế , nó chỉ trời nhưng là thứ trời cứng đơ đối kháng với người nên lời Kinh cho là biết tiến mà không biết thoái " kháng long tri tiến nhi bất tri thoái , chữ hán " . Cho nên dùng nó thì là duy tâm , duy linh một chiều chống đối với duy vật ở hào 1 , cả hai đều song song đối kháng như cái gông dài hai mươi lăm thế kỷ kìm kẹp làm ngột thở cái hồn Minh triết . Vì khi dùng 2 hào này thì đều là cái học xa người : trời quá trời, đất quá đất không liên hệ chi với người như hào 2 tuy thuộc địa và hào 5 tuy thuộc thiên nhưng nằm sát hai hào nhân là 3, 4 . Nên dùng 4 hào đó : 2, 3, 4, 5 mớ là "nhân dịch" hay là "kỷ dịch" có hướng nội . Còn khi dùng hào 1, 6 thì ra "vật dịch" . Dùng đến sẽ hối hận : "kháng long hữu hối, chữ hán" . Vì rằng "cùng chi tai dã, chữ hán" . Cái gì dù cao như trời mà đi đến chỗ quá đáng thì trước sau gì rồi sẽ dẫn tới tai họa . Như thế chỉ còn lại 4 hào 2, 3, 4, 5 .
Hào 2- "hiện long tại điền" là nói về tâm thức đã khởi xuất hiện trên mặt ruộng . Vì đây là hào 2 thuộc địa nên nói ruộng mà khi giải nghĩa theo lối " kỷ dịch " thì phải hiểu là tâm trạng thức tỉnh đối với đạo làm người ( nhân đạo ) nên lời Kinh nói : " Lợi kiến đại nhân " . Nếu hiểu thấp thì có nghĩa là nên đi gặp ông lớn ( để kiếm một ghế bộ trưởng ) , nhưng nếu giải theo lối Kỷ dịch thì phải hiểu là " Mỹ lợi " tức cái " lợi phổ biến của đợt an vi " và câu " lợi kiến đại nhân " chỉ có ý nói cần phải vượt qua giai đoạn trục vật thuộc hào 1 và 2 để tiến lên đợt Nhân bản tâm linh . Vì thế lời Kinh thêm rằng : " hiện long tại điền : thời xả dã , chữ hán " , khi long đức xuất hiện trong tâm hồn nào thì đó là thời xả , thời mà lý trí sẽ lơi ra khỏi cái nhìn duy địa , duy lý đặng đi đến những chân trời xa lạ của tâm linh (tiềm thức, vô thức) ; ở lì lại trong chặng lý sự ( địa thời ) tức là tự giam hãm mình trong đợt nhị nguyên đối kháng : đất chống trời , trời chống đất cả hai tạo nên những lý thuyết chống đối tiêu cực hay là trừu tượng son đẹt , nên cần thóat ra khỏi đó . Có hai lối thoát : một là bằng kinh nghiệm sống của hoạt động sẽ tả ở hào 3 , hai là bằng lối "thù tĩnh đốc vô vi" ở hào 4 .
Hào 3- "quân tử chung nhật kiền kiền" quân tử suốt ngày họat động . Dùng hai chữ kiền kiền nói lên tính cách an vi , chú trọng tới làm nhưng không còn chấp đối tượng như có thể xảy ra ở hào 1, 2 . do đó nói kiền kiền mà không nói kiền cái chi , nghĩa là chỉ có động từ , nên lời kinh còn chua thêm "dữ thời giai hành , chữ hán" luôn luôn hành động . Hành động mà không có đối tượng để tránh cho lòng khỏi chấp vào đâu cả , đặng thong thả tiến lên cõi Ðạo là cái toàn thể bao la gồm cả trời đất người chứ không quy hướng vào một đối vật bé nhỏ nào hết .
Ðó là lối họat động , kế đến là lối cảm tình cũng thế : "tịch dịch nhược lệ: vô cữu" , chiều đến còn như lo săng sắc : không lỗi. Chữ lệ có nghĩa là mạnh mẽ ( lệ thanh : lớn tiếng , lệ tinh: phấn khởi tinh thần) như "lo mạnh" , nhưng không lo về một cái gì nền toàn bầu tình tứ giốc vào việc lo, nhưng không có đối tượng nên nói "như lo mạnh : dịch nhược lệ" . Thực ra đây là lo cho Ðạo , lo cho đường tiến hóa nên chữ "dịch" ở hào 3 thêm bộ tâm vào chữ dịch là nét đặc trưng của hào 3 là Nhân Bản , mà nên Nhân Bản chân thực bao giờ cũng phải chú trọng đặc biệt đến việc chuyển hóa tâm thức con người nên nói : "cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch, chữ hán" , do đó mà còn phải tùy thời để cải hóa tâm hồn .
Cũng có một chữ nữa nói lên tính chất đi vào nội tâm là chữ "tịch" , tịch là đêm tối , nếu ngày biểu thị ý thực lý trí thì đêm biểu thị tác động huyền diệu của các sức lực thiêng liêng tai mắt không thấy được , nhưng luôn luôn làm việc để đưa con người đạt tới trình độ thông hiểu để giải thóat . Bởi thế thay vì duy lý thí dụ "ngôn ngôn thì đây nói "kiền kiền" : thay vì nói lên bứơc rẽ đi từ "vật dịch" tiến vào "nhân dịch" , "kỷ dịch" .
Vào đến kỷ dịch thấy mở ra hai lối : một là nhất hạp , hai là nhất tịch . Nhất hạp là lăn lưng vào đời sống : un engagement , một bước đi vào cuộc sống sinh lý, xã hội như lập gia đình , tìm địa vị , giúp cải thiện xã hội . Nếu không đi qua đợt này thì khó phát triển hết mọi khả năng con người , vì đây thuộc giai đoạn tán , tán là một "nửa" của Ðạo : nửa âm; có làm tròn nửa âm thì mới bước sang "nửa" dương , và khi làm tròn nửa dương là "tụ vào, quy tâm" thì mới đạt Ðạo là cái bao gồm cả âm lẫn dương : "nhất âm nhất dương chi vị đạo" . Vì thế lời Kinh được bàn rộng rằng : "Quân tử tiến đức tu nghiệp . Trung tín sở dĩ tiến đức dã . Tu từ lập kỳ thành sở dĩ cư nghiệp dã . Tri chí chí chi , khả dĩ cơ dã . Tri chung chung chi ; khả dĩ tồn nghĩa dã , chữ hán" .
Muốn lăn lưng vào đời theo lối hiền triết thì cần tiến đức tu nghiệp . Muốn tiến đức thì phải lấy hai chữ trung tín làm nền . Muốn tu nghiệp phải biết tu từ để đạt đến độc lập . Lập là bước thứ ba trong tiến trình học tập gồm 4 bước là học , hành , lập , quyền . Vậy chớ hiểu tu từ là luyện văn chương hay sáng tác văn nghệ , nhưng phải hiểu từ theo nghĩa uyên nguyên là lời vô ngôn hay lời Tự sự theo nghĩa Logos của cố hiền triết Hy Lạp hay Vac của nền minh triết Ấn Ðộ . Hiểu cụ thể thì có thể là những lời trong Kinh Dịch phải biệt ngoạn biết chiêm .
&&&&
Muốn tu từ theo nghĩa sơ nguyên thì cần vừa phải biết chỗ chí cực mà cũng vừa phải đi tới chỗ chí cực . Có thế mới hiểu đặng thiên cơ (là điều cần cho được lập kỳ thành) , phải biết chỗ cùng cực , và làm cho trọn vẹn thì mới tốt nghiệp . Ðó là một sứ mạng gồm cả nội thánh lẫn ngoại vương , nên hết sức cao trọng . Còn nếu để mình trụt cuống đợt cưỡng hành , lợi hành ở hào 1 , 2 thì sẽ chấp vào một đối tượng bé nhỏ mà không còn là kiền kiền , không còn là triết lý bằng động từ . Vì thế tuy lo mà không mắc lỗi .
Ở đây nên chú trọng đến mấy chữ "tri chí chí chi , tri chung chung chi" . Ngược với hào 6 nói "cùng chi tai dã" hay hào 1 "tiềm long vật dụng" . Tại sao hào 3 hô đi đến cùng cực mà hào 6 lại nói "cùng cực là tai họa" ? thưa khác nhau vì hào 3 thuộc nhân , càng cùng cực thì càng đi sâu vào nhân tính . Cho nên ở hai hào nhân đều hô đi đến cùng cực: có chí trung (kỳ trung) thì mới đạt chí hòa . Nói khác nếu hỏi biết đâu là chí , biết đâu là trung ? Thì thưa rằng : chí hay trung đều không ở đây không ở trời nhưng ở nơi người . Vì thế đến hào 4 nói về nhất tịch , un disengagement , còn cách mạng hơn nữa là hô nhảy vào uyên tuyền , tức là đi đến cùng cực .
Cũng nên ghi nhận xét sau : ở hào 3 cũng như hào 4 đều không nói tới Long , là vì hai hào này thuộc Nhơn , nên dùng chữ quân tử là chủ thể thay cho chữ Long . Hào 4 không có chủ thế thì hiểu ngầm là cùng một chủ thể như hào 3 .
Hào 4 -"hoặc dược tại uyên : vô cữu" , hoặc nhảy vào uyên mặc: không lối . Phương pháp "dược tại uyên" này mạnh hơn lối "kiền kiền" ở hào 3 . hào 3 gồm 3 bước , một bước ngầm là lơi ra khỏi lý trí thuộc hào 1, 2 . Còn hai bước tích cực thì một là họat động (kiền kiền) hai là vun tười tâm tình (dịch nhược lệ) . Hào 4 cũng theo hướng "kỳ dịch" như hào 3 nhưng đi mạnh hơn : về tiêu cực không phải lơi ra khỏi lý trí nhưng là chống lại lý trí và để sự chống lại được mạnh mẽ thì nhảy vào uyên mặc : đoạn tuyệt không những với lý trí mà luôn cả với hành động và cảm tình .
Vì thế lời Kinh cho là cách mạng : "hoặc dược tại uyên : kiền đạo nãi cách, chữ hán" , nhảy vào hố thẳm là cách mạng . Nếu gọi hào 3 là "hữu vi" thì dược tại uyên là "vô vi" . Tuy nhiên không lỗi vì còn đang trong tiến trình dịch lý là đạo hành vi , nên được tại uyên chỉ là nói lên tính cách linh động uyển chuyển có lên mà cũng có xuống : "thượng hạ vô thường phi vi tà dã: tiến thoái vô hằng phi lý quần dã , chữ hán" , lên xuống không có luật thường miễn là không làm điều tà vậy ; tiến thoái không có luật nhất định miễn không xa lìa xã hội . Tuy nhiên lại đặt chữ hoặc chỉ ý nghi ngờ vì đây là trạng thức có phần nguy rất dễ ly quần , xuất thế, nên lời kinh nói :
"Thượng bất tại thiên
Hạ bất tại điển
Trung bất tại nhơn
Cổ hoặc chi
Hoặc chi giả nghi chi dã".
Chữ hán

Trên chưa đã trời (trời khởi từ hào 5, đây mới là hào 4) dưới đã lìa đất (đất hết hào 2) giữa không ở với người . Vì tuy hào 4 thuộc nhân nhưng cái vị trí (hào 4) là dương : hào dương ở vị dương cả hai đều cứng : như thế có cứng thiếu mềm khó thích nghi với xã hội , nên lời kinh nói : cửu từ trùng cương nhi bất trung, chữ hán" : hào 4 hai lần cương thì không phải là trung . Vì trung phải ở giữa cương và nhu . Toàn cứng thì sao mà trung , bởi vậy khi trải qua giai đoạn này cần phải nghi ngờ mới không lỗi .
Hào 5- "phi long tại thiên , lợi kiền đại nhân" .
Hào 5 thuộc thiên nên chữ long tại xuất hiện . Lần này xuất hiện trên trời, bay lượn thong thả . Ðó là tả cái cảnh đạt Ðạo : Ðạo của thánh nhân . Lợi kiền đại nhơn : cũng một câu như hào 2 , nhưng ở hào 3 đại nhân được nhắm tới như một ý tưởng . Còn đây là đã đạt được đích , hành giả đã trở thành đại nhân rồi , nên ở hào 5 kể ra đức tính của đại nhân như sau :
Phù đại nhân giả
Dữ thiên địa hợp kỳ đức
Dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh
Dự tứ thời hợp kỳ tự
Dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung
Chữ hán
Thật là đúng nghĩa đại nhân mà sứ mạng là hòa là hợp là giao là hội (xem Nhân Chủ) . Vì cho được thành đại nhân theo đúng nghĩa thì không còn để mình bị tù túng trong một cái duy nào nữa : không duy địa , duy thiên , hoặc duy nhân ; nhưng là hợp với linh đức của trời đất , hợp với sáng soi của nhật nguyệt, hợp với tiết diệu của 4 mùa , hợp với cát hung của quỷ thần .
Mấy câu này nói lên mức "chí thành" của hào 5 : tất cả những gì đã khởi sự ở các hào 2, 3, 4 đều được kết tinh nơi hào 5 , nên mở ra rộng tới tận cùng bờ cõi vũ trụ , nhờ đó mà đại nhân đạt độ sáng tác tạo dựng . Tất nhiên không có ý nói về sáng tác văn nghệ nhưng về "an bang tế thế" khó hơn nhiều vì đòi phải biết đến thiên cơ , để hướng dẫn thiên hạ . Phải nhìn ra được rất nhiều cách giải quyết cho một vấn đề và biết chọn một lối ứng đáp thích hợp hơn cả . Nhờ đó trở thành uyển chuyển linh động không bị bò sát vào một lối giải quyết nhưng có thể "vô khả bất vô khả" . Ai làm được như thế , nếu không phải là bậc "phi long tại thiên" nghĩa là bay rất cao đặng nhìn rất rộng hầu có thể tạo với tác , nghĩa là thích ứng với mọi hoàn cảnh . Nếu đọng lại ở "hữu vi" hay "vô vi" thì làm sao linh động được như thế . Bởi vậy lời kinh nói : "quân tử kiến cơ nhi tác , chữ hán" và "thủ xuất thứ vật vạn quốc hàm ninh , chữ hán" , người hướng dẫn (đi đầu) thiên hạ , làm cho vạn quốc được hàm ân , tức là được hưởng an ninh . Vì đó là hậu quả của "thượng trí dã" . Vì thế lời kinh nói :
Ðồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu.
Thủy lưu thấp , hỏa tựu táo
Vân tùng long , phong tùng hổ
Thánh nhân tác , nhi vạn vật đổ
Bốn hồ thiên giả thân thượng
Bồn hồ địa giả thân hạ
Tắc các tùng kỳ loại dã .
Chữ hán.
&&&&
Nhờ nền minh triết phổ biến không duy thiên hay duy địa , mà có thủy có hỏa , có lên có xuống , có thân thượng mà cũng có thân hạ , nên không một khuynh hướng nào bị ức chế , nhưng được phát triển tùy tài . Ðó là cái sáng tác của thánh nhân khiến hết mọi người đều xem thấy đều được hưởng nhờ .
Hào 6- Ðã nói trên : "dùng thì hối" . Lời kinh thêm lý do : "tri tiến nhi bất tri thoái , tri tổn nhi bất tri vong , tri đắc nhi bất tri tang , chữ hán" , biết tiến mà không biết thoái , biết còn mà không biết mất , biết đắc mà không biết thất . Ðó là lối nhị nguyên độc khối một chiều , nên thiếu linh động . Vì thế tiếp sang hào dụng cửu .
Dụng cửu : không có hào 7 mà lại có dụng cửu , đó là một nét đặc trưng của quẻ Kiền . Dụng cửu được thêm vào để nói lên 7 đợt tiến hóa của con người , vì đó là luật trời "thiên tắc" . "Kiền nguyên dụng cửu : nãi kiến thiên tắc, chữ hán", mà thiên tắc là "lục hào phát huy , bàng thông tình dã , chữ hán": cả 6 hào phát huy, gần nhau mà thông hội. Ðây gọi là "tắc thiên" cao hơn nghi thiên , oán thiên v.v.
Tại sao trên đã gạt bỏ hào 1 và 6 mà đây lại gồm cả 6 ? Thưa không chuyên dung , nhưng bao hàm do sự lân cận : hào 2 liền với hào 1 cùng đất , hào 5 liền với hào 6 cùng thiên . Sở dĩ bao hàm được vì không nói ra , không viết ra . Chính ví không nói ra nên hiệu năng toàn triệt . Bởi vậy lời kinh nói "bất ngôn sở lợi đại tai hỷ , chữ hán" : không nói ra nên lợi rất lớn ! Và sự không nói diễn đạt bằng câu "hiên quần long vô thủ, chữ hán" : hiện ra một đoàn rồng không đầu , đòan rồng là 6 hào hay chia ra ba cặp , chỉ Tam tài quy vào Nhất thể như Ðầu . Nhưng Thể đây là tiềm thể u linh không xuất hiện nên gọi là vô thủ .
Nói vô thủ tức cũng là vô vĩ , vô thân , vô túc , nên không cần chỗ để chân hay dựa đầu . Không có gì nên không phải ở đâu , đó là thần , vì "thần vô phương". Chính vì vô thủ nên diệu dụng như thần , bao hàm khắp hết các đợt tiến của con người và sẽ tùy thời , tùy trình độ mà dùng hào này hào kia uyển chuyển đặng đi lên trời : "vị bộ nhơn với lập thành , thời thừ lục long dĩ ngự thiên , kiền đạo biến hóa . Các chính tính mệnh , bảo hợp như đại, chữ hán" : sáu nấc tiến , tùy thời mà thành tựu . Tùy thời mà cỡi 6 con rồng để đi lên trời . Thì mọi loài sẽ tiến theo đúng cái tính của mình gây nên cuộc thái hòa trong vũ trụ .
Ðó là lộ trình tiến hóa được tả lại trong quẻ Kiền nhằm giúp cho mọi vật giữ được tính mệnh để duy trì sự hòa hợp cùng tột .
Ðó là cứu cánh của con người mà xưa kia thánh nhân đã nhằm khi làm ra Kinh Dịch với mục đích giúp con người thuận theo cái lý của tính mệnh : "tích giả thánh nhân chi tác Dịch dã , tương dĩ thuận tính mệnh chi lý , chữ hán" (thuyết quái 2 )

&&&&&&&&

Ghi nhận riêng :
Bây giờ , 2007 , thì ứng vào quẻ nào ? Làm sao biết cách xử dụng ?
Chứ học như con vẹt 64 quẻ , thì có áp dụng được không ?
Làm sao biết thuận thiên hành đạo ?
Hay là lấy đại 1 quẻ nào đó chăng ? Bởi thế ,có mà như không ? Vì chả ai biết cách xủ dụng Kinh Dịch ?
Môn võ công bí truyền này ,chỉ truyền cho ai có nội lực cao siêu , đả thông Nhâm Đốc nhị mạch ? Như Trương Vô Kị hay Đoàn Dự ?

&&&&&&&&