Thứ Tư, 31 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 4.1

Dịch Học Tinh Hoa –Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Chương 4.1
THỜI :
Có thể nói , toàn bộ Chu Dịch tóm lại chỉ có 1 chữ THỜI mà thôi ( Chu Dịch nhất bộ thư , khả nhất ngôn nhi tế chi viết Thời ) .
Chữ Thời và chữ Cơ ở Chu Dịch rất là quan trọng . Cho nên thường được gọi là Thời Cơ ..
Nói đến Thời và Cơ ,phải lưu ý đến 2 chữ Cập thời . Hiểu được 2 chữ ấy đâu phải dễ .Ở quẻ Kiền Văn ngôn có viết : Quân tử tiến đức tu nghiệp dục cập thời dã , cố vô cửu . Người quân tử tiến đức tu nghiệp chỉ cầu hành động cho kịp thời , bởi vậy mới không lỗi lầm . Đó là tất cả bí quyết trong đạo xử kỉ tiếp vật của Chu dịch .
Lại cũng nói : Chung nhật kiền kiền dữ thời giai hành . Cả ngày chăm lo sốt sắng ,là muốn đi đúng với chữ Thời ,tức là đúng Thời và hợp Thời.
Bỏ mất chữ Thời , thì hành động nào cũng sẽ hỏng , có khi nguy hiểm cho xã hội và cho cả thân mình là khác .
Ở quẻ Kiền có câu : Kì duy Thánh nhân hồ ! Tri tiến thoái tồn vong chi đạo nhi bất thất kì chánh gia , kì duy Thánh nhân hồ !
Ôi chỉ có bậc Thánh nhân mà thôi ư ! Biết được cái đạo tiến thối , mất còn , mà không làm mất chỗ chánh trung của nó . Ôi chỉ có bậc Thánh nhân mà thôi ư !
Chữ Thời của Chu Dịch không phải là cái Đạo xu thời phụ thế , mà phải biết tuỳ thời mà thuận , tuỳ thời mà chống , để đừng làm mất đạo trung . Chữ Thời phải hiểu vời nghĩa như thế , tức là theo 2 nghĩa thuận nghịch của Âm Dương .
Thời là Biến , nhưng mà biến đúng Thời , theo đúng với đạo Trung ( bất biến ) nên mới nói : nhi bất thất kì chánh . Như thế ,cái đạo trung của Chu Dịch là biết giữ mức quân bình giữa 2 chiều thuận nghịch , nghĩa là chấp kinh mà cũng biết tùng quyền . Chấp Kinh là Thường đạo , tùng quyền là quyền đạo .
Ở quẻ Cấn ,Thoán truyện có viết : Thời chỉ tắc chỉ , thời hành tắc hành , động tịnh bất thất kì thời. kì đạo quang minh . Thời nên nghỉ , thì nghỉ ,Thời nên làm thì làm . Nếu động tịnh không sái thời , thì đạo mới được sáng tỏ . Bởi vậy mới nói : Dịch là quyển sách dạy ta cái đạo biết tiến biết thối, biết giữ cho còn , biết làm cho mất .( tri tiến thoái tồn vong chi đạo ).
Nhưng Thời cũng có 2 nghĩa : thời bên ngoài và thời bên trong . trong đạo xử thế , trước phải rõ cái thời trong ta . Rõ được cái thời trong ta , nhiên hậu mới có thể bàn đến cái thời bên ngoài . Nếu cái thời trong ta chưa được dự bị và thực hiện đầy đủ , thì cái thời bên ngoài dù có tốt đẹp bao nhiêu , cũng không nên bàn đến làm chi vô ích . Nói theo Binh thư , đó là cái đạo Tri kỉ tri bỉ .Thời bên trong và thời bên ngoài phải tương đương mới tương ứng : Đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu .
Bậc thức giả phải lo dự bị cái Thời bên trong để chời đợi cái thời bên ngoài mà hành sự ( như đã nêu ở hào sơ cửu quẻ Kiền ). Đã có không biết bao nhiêu cuộc cách mạng bên ngoài đổ vỡ , không thực hiện được đúng sứ mạng của nó , là vì cuộc cách mạng bên trong của nó chưa dự bị để theo kịp , để đáp ứng .
Ở hào 6 quẻ Kiền diễn rất rõ lẽ ấy : 6 hào của quẻ Kiền là tượng 6 Thời . Sáu Thời cũng lại phân thành Nội và Ngoại .Nội và Ngoại dùng làm biểu lí cho nhau , không thể rời nhau , nên mỗi quẻ gốm có 6 hào : 3 hào nội , 3 hào ngoại , tượng trưng Nội Thời và Ngoại thời . Trong 1 đơn quái cũng có Nội Ngoại : hào giữa là hào chính trung ,gọi là nội hào ,còn 2 hào trên dưới thì gọi là Ngoại hào .

&&&&&&&

Chú thích : Dịch không phải là duy tâm hay duy vật , như có nhiều người đã nhận định sai lầm . Dịch gồm cả Tâm Vật , là Nhất nguyên luận .
Nếu nhìn bằng cặp kính duy vật , thì chỉ thấy Dịch là duy vật . Duy tâm cũng thế .
Vì con người bị xé nhỏ , nên không có con mắt tổng hợp .
Con nhà Võ nói là : đả thông Nhâm Đốc nhị mạch .
Con nhà Phật gọi là : Đáo bỉ ngạn .
Ôi chỉ có Thánh nhân thôi sao ? Con người cứ tranh dành ngôi vị , thập nhị sứ quân …Loạn li mãi …

&&&&&&

Đứng về phương diện Vũ trụ luận , hay nhân sinh luận . Dịch không nhận có sự phân chia Nội Ngoại , Tâm vật …mà tất cả là 1 . Cho rắng Dịch học là Duy Tâm hay Duy Vật đều là sai lấm cả : người và xã hội là 1 , cũng như người và vũ trụ vạn vật không phải là 2 .
Nội Ngoại tương ứng 1 cách khít khao , cho nên luật Đồng thanh tương ứng , đống khí tương cầu , là 1 trong những quy luật quan trọng nhất của Dịch lí , như đã nói trước đây .
Bởi nội ngoại phải tương ứng và tương xứng với nhau 1 cách điều hoà , nên ở Dịch hệ từ mới có lời khuyến cáo sau đây : Đức bạc nhi vị tôn , trí tiểu nhi mưu đại , lực tiểu nhi nhiệm trọng , tiển bất cập hỉ . ( Đức mỏng mà ngôi cao , trí nhỏ mà lo việc lớn ,sức nhỏ mà gánh nặng ,thì ít khi thành việc ) .
Như trước đây đã bàn qua , chỉ có biến mới có đổi mới , nghĩa là phải có tử mới có sinh . Cho nên , nói sinh sinh là nói đến tử tử , như câu này ở hệ từ thượng truyện : Nhật tân chi vị thịnh đức , sinh sinh chi vị Dịch . ( Ngày 1 đổi mới , gọi là đức thịnh , sinh rồi lại sinh , gọi là Dịch . Có thịnh mới có cùng , có cùng mới có biến , có biến mới có chết , có chết mới có sinh , và sinh sinh bất tận )
Nhưng biến , không nên để cho đột biến mà nên để cho tiệm biến , nghĩa là biến từ từ . nếu để cho sự việc đến mức cùng , gây đột biến ( biến 1 cách đột ngột ) thì phần lợi ít mà phần hại nhiều . Nên chi cái đạo của Dịch cầu lấy chữ Thông làm gốc .
Muốn biến từ từ theo lẽ tự nhiên ( vì Dịch chủ lấy tự nhiên làm gốc ) để cho người ta biến mà không biết , hoá mà không hay , phải theo cho đúng thời , không nên quá sớm , cũng không nên quá muộn , không nên thiên hẳn vế 1 cực đoan nào cả ( bất thiên vu lưỡng cực đoan )
Tóm lại , nói về chữ Thời trong Dịch , là nói đến vấn đề Trung Chánh của Dịch . Tuy chia ra mà nói , sự thật nói đến Trung Chánh , tức là nói đến chữ Thời , cũng như nói đến chữ Thời , tức là nói đến Trung Chánh . Cho nên thường gọi chung là Thời Trung .

&&&&&&

Nhận xét :
Đừng cho cùng cực , nghĩa là thấy dân đói , không đủ sống , chính quyền phải thay đổi kế sách ngay . Đừng để cho cùng cực , dân phản ảnh , khiếu nại … Đưa tới li loạn …
Bởi thế ,chính quyền phải nhìn xa trông rộng ,đứng để xã hội bị xô đến cùng đường , như bần cùng sinh đạo tặc …Phải sửa đổi chính sách cho hợp lòng dân …
Dịch chỉ là thế mà thôi .

&&&&&&

Thứ Ba, 30 tháng 10, 2007

kết chương 3

Dịch học tinh hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Phụ chú Chương 3.
Nếu phải lấy 1 cái đồ tượng để nói lên đạo Hằng ( bất biến ) và đạo Biến ( biến dịch ) của Dịch Đạo , thiết nghĩ chứa có cái đồ nào khêu gợi bằng cái hình tượng đòng đưa ( quả lắc ) sau đây .
Quả lắc chuyển động từ mặt qua trái , từ trái qua mặt , và sở dĩ có sự : đồng đồng vãng lai , là nhờ có trọng tâm ngay chính giữa nắm giữ quân bình ( trục thẳng đứng ) , không cho cái đòng đưa đứng mãi ở vị trí thái quá hay bất cập ( vị trí A 1 và A 2 đối xứng nhau : tượng trưng cho cái đạo Biến Dịch ) Cái đường dọc thẳng đứng tượng trưng cho cái đạo Bất Dịch .
Tuy không thấy nó chuyển động gì cả , nhưng kì thật là động cơ chánh của tất cả mọi sự chuyển động trên đời . Cho nên mới nói : Vô vi nhi vô bất vi . cái điểm giữa nơi gặp gỡ của 2 đường thẳng đứng và quả lắc , gọi là điểm hư vô , không Đông không Tây , không Nam không Bắc , không Thị không Phi , không Thiện không Ác … Bao nhiêu sự động chuyển đều do cái điểm hư vô này gây nên . Nó giống như cái lỗ hổng trên không trung thu hút rất mạnh không khí chung quanh . Cái Không sinh ra cái Có vì thế .( Hữu sinh ư vô ) .
Ở đồ bát quái ,Tiên thiên ( Hà đồ ) chỗ bất dịch ấy nằm ngay giữa 2 lằn kinh vĩ Kiền Khôn và Li Khảm tức là chỗ Thiên Địa chi tâm . Tâm con người mà ta thường gọi là Tâm Hư , cũng trụ nơi Vô Trụ đó . Nhà Phật gọi là : Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm . Chính cái trung tâm ( hư vô ) ấy chỉ huy tất cả mọi biến động trên đời , mà Lão Tử gọi là : Tam thập phúc cộng nhất cốc , đương kì vô hữu xa chi dụng .. Bao nhiêu cặp mâu thuẫn đối đãi đều bị tiêu huỷ nơi điểm Hư Vô ấy . Thiên Chúa Giáo dùng hình chữ Thập làm nơi an nghỉ vĩnh viển của chân tâm , Phật giào thì dùng chữ Vạn làm trung tâm của Niết bàn tịch tịnh , nguồn gốc của vạn hữu .
Cái điểm Hư Vô ở trung cung này thật là im lìm bất động ( vô vi ) chính là cái Tâm Hư , nhưng như đã nói trên đây , nó lại là cái nguyên động lực của mọi sự mọi vật trên đời , nghĩa là thấy thì nó không làm gì cả ( vô vi ) mà không 1 việc gì không do nó làm ra ( nhi vô bất vi ) Thiệu Tử nói : Cái Tâm thuần nhất thì không bị phân chia , như thế mới có thể ứng được vạn biến . Ấy sở dĩ người Quân tử giữ cho Tâm Hư bất động là thế .
Đó cũng là chỗ mà Lão Tử : Huyền chi hựu huyền , chúng diệu chi môn . Nhà Đạo thường gọi là Huyền Không .
Hai cái nghĩa , mới thấy như là mâu thuẫn của Dịch : là Biến và Bất Biến cũng gọi là luật Hằng Chuyển tức là Biến trong cái Bất Biến . Học Dịch mà không rõ được cái lẽ ấy , thì không nên bàn đến Dịch Lí làm gì . Vương Bật nói rất đúng : Tự kì biến giả nhi năng tri bất Dịch chi phương , nhiên hậu khả dĩ ngôn Dịch hĩ .
Từ chỗ Biến , mà biết được chỗ Không Biến , mới có thể bàn đến Dịch mà thôi .
Dịch đạo là đứng về phương diện Tu Thân , phải thực hiện cho kì được sự Hư Kì Tâm , triết lí của nó là triết lí của sự Điều Hoà , chứ không phải là thứ Triết Lí của sự Tranh Đấu để rồi phải có 1 cái này thắng và tiêu diệt cái kia .Thế giới của Dịch Là 1 cõi thế giới mà nguyên lí căn bản là sự Tương Đối , chứ không phải là thế giới của sự Tranh Đấu . Vì không có sự tranh đấu 1 mất 1 còn , cho nên cũng không có cái gì là mục đích cuối cùng phải đạt đến , hay 1 sự thắng trận nào phải thành công .
Cho nên mới nói : những cuộc đại thắng là những cuộc đại bại . Hễ vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản . Dương cực Âm sinh , Âm cực Dương sinh . Dịch , vì thế , chỉ có Biến , chứ không thể có tiến . Không Tiến , thì không có gì phải vội vã , phải bôn chôn , phải cướp thời gian , phải cúc cung tận tuỵ …mà hãy để tự nhiên . Cho nên Dịch mới có nghĩa là thay đổi 1 cáh tự nhiên . Chữ Dị , cũng có nghĩa Tự Nhiên .
Dịch là Tự Nhiên , nên Dịch cũng có nghĩa là dễ dàng ( Dị Giản ) không phiền phức . Nghĩa chữ Dịch là Bất Dịch hay Vô Vi là cái Đạo bớt sự phiền phức của cái Đạo đi ra cho nên mới nói : tổn chi hựu tổn , dĩ chí ư vô vi . ( bớt đi , rồi bớt đi nữa cho đến không thấy làm gì nữa cả ) tức là đến mức cùng tột là Dị Giản , là Hư Không , nghĩa là giản dị .( đơn sơ không phức tạp ) . Nghĩa của Vi Vi là thế , do cái ý bất dịch của Dịch mà ra.
Bất Dịch và Dị Giản hoặc Giản Dị , tuy cúng 1 ý mà có chỗ dị đồng : Bất Dịch là Thể , Dị giản hay Giản Dị là Dụng . Bởi vậy trong danh từ Trung Dung , chữ Dung có nghĩa là Dụng . Trung Dung là nói về cái Dụng của Trung đạo , trung thuộc về phần Tri , Dung thuộc về phần Hành . Trung Dung là Tri Hành hợp nhất của đạo trung . Dụng và thể là 1( tri và hành là 1 )
Ở chướng 8 hệ từ có viết : Dịch chi vi thư dã , nguyên thuỷ yếu chung dĩ vi chất dã . Dịch , là sách lấy sự Nguyên thuỷ yếu chung làm bản chất . Nguyên thuỷ yếu chung , là suy cầu nguyên nhân chính gốc ( thái cực ) để mà suy tầm cái kết quả cuối cùng . Suy cầu đến cái nguyên nhân chính gốc , tức là nói đến sự trở về cái gốc ,cái trung tâm bất dịch vậy .

&&&&&&

Ghi nhận : Sách dịch là sách dạy : tu thân , tề gia , trị quốc , bình thiên hạ . Bất cứ 1 người nào củng có thể hiểu được , tuy khó , nhưng chả lẽ ta lại kính nhi viễn chi ư ?
Chỉ vì không hiểu , đưa tới không thực hành , nên cuộc đời mới đầy những hỉ nộ ái ố . Đầy những tranh đấu liên miên , tàn phá cả tâm hồn con người lẫn xã hội ta sống .
Lợi càng cao thì hại càng to . Đó là luật ! Chúng ta chế ra xe hơi , honda , rất lợi , nhưng hại thì cũng có , ô nhiễm bầu khí quyển …chúng ta chế ra thuốc súng , cái này chưa thấy lợi , nhưng cái hại quá xá , chiến tranh và khủng bố …chế ra bom nguyên tử , mục đích chỉ là giết ta mà thôi ?
Nếu hiểu Dịch , chúng ta không mong chế ra tất cả những tiện nghi vật chất , mà sau này lại làm hại chúng ta ! Khoa học kỹ thuật ,chúng ta hoan nghênh cả 200 năm nay . bây giờ là lúc mà chúng ta nhận lãnh hậu quả khốc liệt của nó !
Không khí nóng lên , băng tan , ngập lụt , ung thư , đói kém chiến tranh …vì sinh đẻ quá nhiều do dục vọng nhiều …
Tri túc tiện túc , vì quá tham lam , ham tiến bộ , nên ta hăm hở khám phá , sáng chế biết bao nhiêu thứ , Thay vì biết đủ và bằng lòng với cái đang có . Nên nhân loại đang sa vào hố sâu , vực thẳm .

&&&&&

Tổn hữu dư bổ bất túc . Bớt chỗ nhiều , bù chỗ ít . Giờ là lúc cả thế giới nên ngồi lại , chia xẻ , hàn gằn vết thương , nạn thiên tai bão lụt , nạn nhân mãn ,đói kém , đã quá nhiều đau khổ .
Đừng gieo thêm chiến tranh , khủng bố . Bỏ Vũ Khí , bom đạn .

&&&&&



Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.3

DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN
CHUONG 3.3
BẤT DỊCH :
Dịch , lại cũng có nghĩa thứ 2 là bất dịch hay bất biến .
Là tại sao ? Là vì sự biến hoá ở mọi vật , bao giờ cũng diễn biến trong vòng trật tự , theo 1 quy luật bất di bất dịch .
Cái luật bất di bất dịch ấy , Dịch gọi là luật Thường nghĩa là Thường trụ bất biến .
Dịch truyện có câu : Động Tịnh hữu thường .( Động hay tịnh cũng đều bị cái luật thường chi phối ) .
Lại cũng nói : Ngôn thiên hạ chi chí động , nhi bất khả loạn dã . Tất cả sự vật dưới trời đều rất động ( nhưng nhờ có luật Thường chi phối mà sự động ấy không rối loạn . ĐạoThường tức là Đạo Trung , cái Đạo quân bình . Chính vì theo luật Thường ( bất biến ) ấy mà vũ trụ vạn vật biến hoá .
Cái đạoThường hằng bất biến ấy chính là cái căn bản của vũ trụ vạn vật , cũng gọi là Hoàng Cực . Cho nên mới nói : Dị giản nhi thiên hạ chi lí đắc hỉ . Cái lẽ biến hóa dưới trời thật là giản dị . ( Hệ từ thượng ) .
Ở hệ từ hạ ( chương 4 ) có nói : (Thiên hạ đồng qui nhi thù đồ ) Tất cả sự vật dưới trời đều cùng về 1 mối , nhưng mỗi vật theo con đường của mình . Đồng qui tức là trở về nguồn gốc là Thái cực , nơi đó gồm cả Âm Dương lưỡng tính , tức là chỗ mà người Tây Phương gọi Nhất nguyên lưỡng tính động .
Cái đó , cái mà mọi sự vật dưới trời đều phải trở về đồng qui . Lão học gọi là Đắc nhất . Luật Thường ấy tuy thấy là không làm gì cả , mà thực sự nó chi phối tất cả , nó có mặt ở mọi cuộc biến hóa trong trời đất , nó bắt buộc không cho sự gì vật gì đi đến thái quá hay bất cập , nghĩa là hễ ; dư thì nó bớt , thiếu thì nó thêm . ( Bổ bất túc , tổn hữu dư ). Nó là luật quân bình . Nó vô hình , nó vô vi nhưng mà nó : Vô vi nhi vô bất vi . Thấy thì dường như không làm gì cả , mà không gì không có cái bàn tay huyền bí của nó xen vào . Cho nên mới nói : Huyền chi hựu huyền , chúng diệu chi môn .
Theo Triết học Tây phương từ Descartes đến nay , chủ luận của họ chính là thiên về Nhị nguyên luận , chia hẳn Trời và Người , Tâm và Vật thành 2 vật độc lập và đối lập , không thể dung nhau . Triết học Trung Hoa lại chủ trương khác : họ cho Trời và Người hoà hợp nhau làm 1 khối ( thiên nhân tương hợp ) và lấy sự thống nhất tâm vật làm tông chỉ , nghĩa là Dịch là Nhất Nguyên Luận hay Nhất Nguyên Lưỡng Tính Luận . Nhất Nguyên đây , tức là chỗ Bất di bất dịch vậy .
Trong : Trung Quốc Ngũ thiên niên sử ,Trương Kí Quân có phê bình về Chu Dịch rất xác đáng như sau : ( Dịch chi vi thư , quảng đại tất bị , vô sở bất bao nhi ngữ kì yếu qui , tắc vi minh thiên nhân hợp nhất chi đạo. )
Sách Dịch thật là bao quát mênh mông , nhưng đại khái cốt xiển minh chỉ có 1 lẽ Thiên Nhân Hợp Nhất mà thôi . Trong thoán từ quẻ Hằng có viết : (Thiên địa chi Đạo hằng cửu nhi bất dĩ dã … quan kì sở hằng nhi thiên địa vạn vật chi tình , khả kiến hỉ …) Đạo của trời đất là thường hằng vĩnh cửu , không bao giờ dứt … Xem cái thướng hằng ấy mà thấy rõ được cái tình trong trời đất muôn loài .
Chữ Hằng đây có nghĩa là cái lẽ : luôn luôn như vậy , không thay đổi . Cho nên người : ( quân tử dĩ lập bất dịch phương ) , người quân tử lấy đó làm chỗ đứng không thay đổi , tức là lấy chỗ bất biến ấy làm đạo Thường để mà ứng với mọi sự biến đổi trên đời .
Các triết gia Trung Quồc về sau đều công nhận cái luật Thường Hằng Bất Biến ấy , như Vương Bật trong Dịch lược lệ : vật nhiều đến thế , vậy mà vẫn đều được tồn tại , là vì cái làm chủ chốt của nó phải rất là nhất trì ; di động đến thế , vậy mà đều được chuyển vần , ắt là vì có cái nguyên thuỷ của nó không phải là 2 . Vật không lầm lẫn ( mà theo 1 trật tự ,1 qui luật nào đó ) . Ắt là do cái Lí của nó ,cho nên tuy phồn tạp mà vẫn không rối loạn , không lầm lẫn .
Trương Hoành Cử ( Tống ) cũng viết : Cái khí của Trời Đất Âm Dương biến hoá , co duỗi , tụ tán không biết đâu là chừng ; khi công , khi thủ , trăm đường khác nhau , nhưng cái Lí của nó bao giờ cũng thuận theo 1 đường , nghĩa là cùng theo 1 qui luật nhất định .
Cái luật ấy , luật Thường chi phối tất cả mọi sự mọi vật , nên gọi là Bất Dịch .
Trình Y Xuyên và Chu Hi của phài Dịch Truyện xem trọng cái Thường hơn cái Biến , cho cái Thường ( Bất Dịch ) mà họ gọi là Lí chẳng những là cái thứ tự trong cái Biến , mà còn là căn bản của cái Biến , làm chủ tể của cái Biến .
Chỉ có Trương Hoành Cừ thì cho rằng Biến là căn bản , quan trọng hơn Thường , nhưng Biền thì biền mà vẫn có điều lí , có trật tự theo 1 cái luật nhất định bất di bất dịch , là luật Thường . Như vậy vấn đề đã đặt sai : Biến có trước ,Thường nhân Biến mà có sau để điều lí , thì ra dù có trước , dù có sau gì cũng đều phải biến theo luật Thường cả .
Trang Tử cũng bảo : sự biến hoá không theo phương hướng nào nhất định cả , tiến hay thối , nhưng lại biến hoá theo 1 cái Cơ và kết luận : vạn vật đều ra nơi Cơ và vào nơi Cơ . Cái mà Trang gọi là Cơ , chính là cái Thường đó .

&&&

GIẢN DỊ :
Dịch cũng có nghĩa là Dị ( dị giản ) không phức tạp . Đó là cái nghĩa thứ 3 của Dịch .
Bất Dịch và Dị giản tuy cùng 1 ý , nhưng có chỗ phân biệt : Bất Dịch là nói về nguyên lí , Dị Giản nói về chỗ ứng dụng của Dịch Lí .
Nếu biết rõ được cái Lí bất Dịch của Dịch , thì cũng có thể hiểu được cái dụng giản dị của nó .
Trong hệ từ hạ chương 8 có viết : Dịch chi vi thư dã , nguyên thuỷ yếu chung dĩ vi chất dã . Dịch , là sách lấy sự nguyên thuỷ yếu chung làm bản chất . Nguyên thuỷ yếu chung , tức là Suy cầu Nguyên nhân chính gốc ( thái cực ) để mà suy tầm đến kết quả cuối cùng . Cũng như trong Đại Học nói : Vật hữu bổn mạt , sự hữu chung thuỷ , tri sở tiên hậu , tắc cận Đạo hĩ .
Vật có gốc ngọn , sự có sau trước , biết được đến chỗ trước sau của sự vật , đó là đã gần với Đạo rồi vậy . Câu văn này , có thể lấy 4 chữ : Nguyên thuỷ yếu chung mà giải thích .

&&&&

Với cái nghĩa Dịch là Dị , thì Dịch không còn là cái Đạo đi ra như với cái nghĩa Dịch là biến nữa , nghĩa là đi từ chỗ Nhất bản tán vạn thù .Từ Thái cực qua Lưỡng nghi , từ Lưỡng nghi qua Tứ tượng đến Vạn tượng phồn tạp nữa ; trái lại Dịch là cái đạo trở về , từ Vạn tượng trở về ngôi Thái nhất . Cũng chính là cái đạo trở về theo chủ trương của Lão Tử : ( Đạo viết thệ , thệ viết viễn , viễn viết phản ) . Lớn là tràn khắp , tràn khắp là đi ra xa , đi ra xa là trở về . Chữ Đại ở đây là chữ Thái hay Thái Nhất , là cái 1 nguyên thuỷ . Cái 1 ấy biến , tức là đi xa ,và đi ra xa …rồi lại trở về . Chữ Phản này là Phản Kì Chân , trở về cái ngôi 1 .
Bởi vậy Dịch đạo gồm cả cái Đạo đi ra ( biến dịch ) và cái Đạo đi về ( bất dịch ) và ( dị giản ) . Tức là Đạo trở về ngôi Thái cực của mình . Hay nói theo danh từ của Đạo gia , thì Đạo ngoại là đi từ ngôi Tiên thiên qua hậu thiên , còn Đạo nội là đi từ ngôi Hậu thiên trở về ngôi Tiên thiên . Dịch đạo vì vậy cũng có thể gọi là đạo Nội Thánh Ngoại Vương ( tu thân tề gia , trị quốc , bình thiên hạ )
Trở về chỗ Dị giản ấy , Dịch gọi là Cơ ,1 lẽ huyền vi của Tạo hoá .
Trong hệ từ thượng có viết : Tri biến hóa chi đạo giả , kì tri Thần chi sở vi hồ . ( Biết được cái đạo của sự biến hoá phải chăng là biết được cái chỗ hành động của Thần . Chữ Thần đây cũng ám chỉ cái đạo của Nguyên Dương , hay là Nguyên Thần . Nguồn gốc Động của vạn sự vạn vật lúc sơ khởi ) . Dịch gọi là Cơ , tượng trưng ở sơ hào quẻ Phục . Cho nên mới nói : Phù Dịch , thánh nhân chi sở cực thâm nhi nghiên cơ dã .
Dịch , là cái mà bậc Thánh nhân đã nghiên cứu cái Cơ đến chỗ cực thâm . Bởi vậy mới có thể thông suốt đến cái chí của thiên hạ . Chỉ có cái Cơ đó mới thành tựu được việc của thiên hạ .Và chỉ đắc được cái Thần , cái Cơ đó mà việc làm tuy không vội mà mau xong , không đi mà đến chốn .
( Duy Cơ dã ,cố năng thành thiên hạ chi vụ , duy Thần dã , cố bất năng tật nhi tốc , bất năng hành nhi chí ).

&&&

(Âm Dương bất trắc vị chi thần ). Chữ bất trắc đây có nghĩa là lưỡng nhất và lưỡng tại , nghĩa là luôn luôn có mặt trong mỗi sự vật , không bao giờ lìa nhau . Cái này ẩn trong cái kia ,cái kia ẩn trong cái này .( Âm trung hữu Dương , Dương trung hữu Âm chi nghĩa ).

&&&

Ở hệ từ hạ chương 4 cũng có viết : Tri Cơ , kì Thần hồ ! Cơ giả , động chi vi , cát chi vi tiên kiến giả dã . Quân tử kiến Cơ nhi tác , bất sỉ chung nhật . ( Biết được Cơ phải là Thần chăng ?... Cơ là cái chỗ động rất nhỏ , là cái điềm lành mà ta thấy trước ; trước khi nó thành hình ; bậc quân tử thấy cái Cơ vừa máy động là tức khắc hành động ngay , không chờ qua hết ngày ).
Dịch là cái học tri Cơ, cùng lí tận tánh , trí dĩ tàng vãng , thần dĩ tri lai . Dịch rất chú trọng đến việc tri lai , và lấy đó làm đề chính yếu – hoặc bằng phép : cùng lí tận tánh - nghĩa là cùng lí ư sự vật , nghiên Cơ ư tâm ý .
Quân tử quý hồ tri Cơ , nghĩa là cầu biết cho đến mức Cơ vi , vì có biết được Cơ vi mới có thể biết được những điều sắp đến . Thấu được Nhân , là biết được cái quả của nó , nhưng phải biết được cái Nhân cùng tột của nó mới được . Ở đây ta thấy Dịch học là cái học tri lai mà người ta thường cho sách Dịch là sách bói .

&&&

Cơ , là ám chỉ cái điểm Dương nằm trong Âm , như cái mầm , tức là hào Dương nằm dưới ( sơ hào ) của quẻ Phục . Tịnh cực Động sinh . Cái căn bản của Vũ Trụ hiện tướng là Âm , nên gọi là Mẫu ( Quy Tàng Dịch , lấy quẻ Thuần Khôn làm căn bản Vũ Trụ ) sự sinh hoá bắt đầu bằng quẻ Phục . Chỗ sơ hào, nhất Dương sinh ấy , gọi là Cơ , cũng gọi là Cơ Vi , nghĩa là rất nhỏ . Tuy nhỏ mà cực lớn , vì nó là cái mầm của các sự sinh hoá sau này . Đó là thời Tiên thiên Âm hàm Dương mà Lão Tử bảo : vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương .

&&&

Khổng Tử về sau gọi cái công phu Tri Cơ này là : mặc nhi thức chi – ( lặng lẽ mà biết ) , công phu học hỏi của Thánh nhân là phải biết “ dò đến chỗ sâu kín nhất của tâm hồn , tìm chỗ u ẩn của nó , cũng như thả câu xuống vực sâu để mà vượt đến miền sâu thẳm nhất của tâm hồn , hầu tiếp xúc được với cái nguồn gốc ấy .
Cùng lí ư sự vật , thuỷ sinh chi xứ ,
Nghiên Cơ ư tâm ý ,sơ động chi thời .
Công phu nghiên Cơ là cần yếu nhất trong công việc học tập , nên chi học giả không nên dừng nơi văn tự , cái mà Trang Tử gọi là : cặn bã của Thánh nhân , và Dịch khuyên ta , trong khi nghiên cứu bất kì vấn đề nào , học giả phải biết thoát li văn tự hầu có thể : tinh nghĩa nhập thần .
Cho nên học Dịch , nếu chẳng đi vào chốn sâu thẳm nhất của cõi lòng , nghiền ngẫm xét nét cái lí của sự vật đến nơi đến chốn thì chưa có thể nói đến Dịch học . ( Dịch chi vi học , phi tiềm tâm chi thâm , ngoạn lí chi thục giả , vị Dịch ngôn dã )
Phải rửa sạch con tâm để đi sâu vào chỗ sâu kín nhất của tâm hồn , mà cũng chính là chỗ mà nhà Phật gọi “ kiến tánh “ và nhà lão gọi là “ kiến tố “.
Rửa sạch con tâm là bôi bỏ những thành kiến của xã hội đã tạo thành lâu ngày và đã che lấp con Tâm của mình . Ngày nay , khoa Tâm phân học của Tây phương gọi là khoa Tâm lí về bề sâu đã bắt đầu đi sâu vào Tiềm thức và Vô thức . Có lẽ về sau này khoa Tâm phân học của Tây phương sẽ giao cảm và gặp nhau được với Đông phương ở kinh Dịch .
Tóm lại , học Dịch là học cái phép Nghiên Cơ thám nguyên . Học giả Trung Hoa từ xưa đến nay không 1 ai là không căn cứ vào đó , nghĩa là không lấy đó làm cái tâm điểm tối trọng cho phép tu dưỡng ( tu tâm dưỡng tánh ) cũng như lấy đó làm phép tu học , nghiên cứu để đi đến chỗ : tinh nghĩa nhập thần , duy tinh duy nhất .
Cái Cơ là cái động cơ ở trong lòng người , tức là chỗ : Tưởng niệm sơ phát , cần phải gìn giữ cái chỗ : vị phát chi trung ; hầu có thể ngừa tà tưởng , không cho nó huân sinh huân trưởng nơi tiềm thức . Đó là công việc ngừa loạn , và trị loạn ngay lúc nó vừa manh nha trong lòng người và sự vật .
Câu phòng loạn hơn trị loạn của Đông phương cũng như câu : trị , là phòng ngừa , của khoa chính trị Tây phương đều cùng 1 nghĩa , cùng lí tận tánh của Dịch học .
Cùng lí và nghiên Cơ , là 2 việc làm bổ túc cho nhau , dùng làm 1 biểu 1 lí ( 1 ngoài 1 trong ) cho nhau , tức là chỗ mà Dịch gọi là : thể dụng kiêm cai , ( gồm cả cái thể và cái dụng ) và tri hành hợp nhất , mà về sau Vương Dương Minh lấy đó lập thuyết cho cái sở học của ông .
Nghiên Cơ và Cùng Lí hợp nhất , đó cũng là 2 thái độ hợp nhất của triết học đạo đức và khoa học thực nghiệm , nội ngoại tương ứng của triết học cổ kim cả Đông lẫn Tây . Hay nói 1 cách khác : nghiên Cơ là Tâm học , Đạo học , còn Cùng Lí là Lí học , Khoa học . Một bên thì : tận kì tánh ; 1 bên thì : cùng kì lí . Đó là tất cả nội dung lực hành của Dịch học , không thiên về bên nào cả , mà gồm nắm trong cái lí Thái cực ( nhất nguyên ) , Bất thiên bất ỷ .
Tất cả tinh hoa của Dịch học nằm gọn trong 3 nguyên tắc tối cao đã trình bày trên đây , khó thể giải bày cặn kẽ .Ta chỉ có thể ý hội mà thôi , vì Dịch có đến 3 nghĩa , biến hoá 2 chiều cuôi nghịch , nhưng tựu trung chỉ có 1 . Có lĩnh hội được cái lí ấy mới có thể hiểu được cái huyền nghĩa của Dịch mà thôi .
Thư bất tận ngôn
Ngôn bất tận ý .
Tóm lại : Dịch gồm cả cái Đạo đi ra và đi về , tượng trưng trong cái đồ hình dấu ngã .
Dịch là Đạo đi ra , là đạo biến ( theo nghĩa thừ nhất ) . Dịch là đạo đi về ( phản giả , Đạo chi động ) ; là Đạo bất biến ( theo nghĩa thứ 2 ) ( phản kì chân , phục kì bản )
Dịch Đạo là 1 ra , 1 vào ( 1 mở ,1 đóng ) như 1 hô 1 hấp . Cho nên , Dịch là nơi xuất phát của 2 hệ thống Triết học Trung Hoa : Khổng học và Lão học . Tuy chống nhau mà là bổ túc nhau , dùng làm biểu kí cho nhau .

&&&&&&

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.2

Dịch Học Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Chương 3.2.

LUẬT TƯƠNG ỨNG TƯƠNG CẦU .
Bàn về cái lí Biến Dịch , Chu Liêm Khê trong Thái cực đồ thuyết có viết : Nhị khí giao cảm , hoá sinh vạn vật , vạn vật sinh sinh nhi biến hoá vô cùng .
Vì 2 khí Âm Dương có giao cảm nhau , thì vạn vật mới hóa sinh ,vạn vật sinh rồi lại sinh nữa cuộc biến hoá mới trở thành vô cùng vô tận .
Hai chữ giao cảm này là then chốt của đoạn văn trên đây ..Nói Giao và Cảm là nói đến sự Tương Ứng ,Tương cầu . Nghĩa là có cầu mà không có ứng thì không có sự giao cảm ,cũng như có ứng mà không có cầu cũng không có sự giao cảm .
Chữ Tương ở Dịch rất quan trọng . Giữa nội và ngoại ,giữa ta và vật … có sự liên lạc mật thiết đến đỗi có thể nói con người là sản phẩm của xã hội vạn vật chung quanh cũng đúng .mà bảo xã hội vạn vật chung quanh là sản phẩm của con người cũng đúng . Dịch học gọi đó là luật : Thiên nhân tương hợp . Thiên nhân tương dữ . Trình Y xuyên cũng quả quyết rằng : Dịch , chỉ bàn có lẽ Thiên nhân tương hợp mà thôi . Thiên đây là thiên nhiên , là xã hội , là hoàn cảnh chung quanh , là vũ trụ vạn vật .
Dù là tự sinh hay tự hoá , nhưng kì thực là tương sinh ,tương hoá . Khi mà nội ngoại : tương thong ,tương nhập , thì chừng ấy mới gọi được là tự sinh tự hoá . Tự sinh tự hoá là nói về lí tuyệt đối Thái cực, còn tương sinh tương hoá là nói về giới tương đối nhị nguyên đang diễn biến vá hoá sinh .
Dịch kinh từ đầu đến cuối , không đâu là không nhắc đến cái luật Tương ứng tương cầu này như 1 cái luật then chốt của luật Âm Dương mâu thuẫn .
Hễ Âm Dương hoà xướng , đó là cái trạng Thái bình . Âm Dương xung khắc , là trạng bĩ loạn . Cho nên ở quẻ Đại Tráng có câu : Dịch , là hòa dịch , lạc dịch chứ không phải là nan dịch .
Hoà dịch , lạc dịch là biến mà thuận hoà , vui vẻ chứ không phải biến trong cảnh chống đối , gian khổ , hằn thù . Ở quẻ Kiền có nói : Kiền Đạo biến hoá , các chính tánh mạng , bảo hợp thái hoà . ( Đạo kiền biến hoá , vật nào cũng được đúng cái Tánh mạng của nó , gìn giữ được cái khí thái hòa của nó ).
Cái luật thường hữu , vĩnh viễn của trời đất là ở nơi sự : Bảo hợp thái hoà . Các chính là mỗi vật đều nhận được từ khi mới sinh . Bảo hợp là giữ được trọn vẹn sau khi đã sinh . Cái mà mỗi vật bẩm thụ gọi là tánh , cái mà trời phú cho gọi là mạng .
Điểm này rất quan trọng . Luật mâu thuẫn của kinh Dịch không phải là cặp mâu thuẫn Nan dịch mà là Hoà dịch hay Lạc dịch , không phải là cặp mâu thuẫn bị gián cách chống đối hẳn nhau và tìm cách để thủ tiêu lẫn nhau để đơn phương tồn tại . Thật sự là vì có sự ngăn cách .
( Như Bergson đã nói : Triết luận đâu có khó nếu ta đừng để có sự chen ngăn giữa ta và sự vật )
Ở quẻ Thái , Trình Tử có viết : Trời đất giao nhau , Âm Dương hoà xướng mà vạn vật phồn thịnh , vậy mới gọi là Thái .
Trong quẻ Phệ Hạp cũng nói : trong thiên hạ , trong 1 nước hay trong 1 nhà , cho đến muôn sự muôn việc , sở dĩ không hoà hợp lại được , là vì có sự ngăn cách . Bỏ cái ngăn cách đi , thì lại có sự hoà hợp . Đạo của Trời Đất , sự thành tựu của vạn vật đều phải có hoà hợp rồi sau mới hanh thông … Nếu có gián cách , ngăn cản , tức đó là yếu tố thứ 3 xen vào , ta phải tìm cách loại nó ra , nên nhớ và phân biệt : Cái yếu tố thứ 3 này không phải là cái khí Thái hoà , dung hoà 2 khí Âm Dương , mà chính là cái mà ở hệ từ hạ ( đệ 4 chương ) nói : Tam nhân hành , tắc tổn nhứt nhân , nhứt nhân hành , tắc đắc kì hữu . ( 3 người cùng đi , ắt phải bỏ đi 1 người , 1 người đi , ắt lại được bạn mình ) .
Cái yếu tố thứ 3 kia , là cái ngăn cách , phải bỏ đi để giữ lại cặp Âm Dương hòa xướng . Còn đi 1 mình , như 1 Âm hay Dương thì Âm cũng sẽ gặp bạn nó là Dương , mà Dương cũng sẽ gặp bạn nó là Âm .
Nên lưu ý về sự tương ứng của 6 hào trong mỗi quẻ : hào gọi là tương ứng phải 1 Âm 1 Dương . Nếu toàn là Âm hay toàn là Dương thì dù tương sinh cũng không sinh được , tương khắc cũng không khắc được . Đó là vô ứng , chứ không tương ứng . Luật tương ứng này rất quan trọng trong khi dùng đến ngũ hành : Dương mộc mới sinh được Âm hỏa . Dương thuỷ mới sinh được Âm mộc . Dù là ngũ hành cũng phải để ý đến Âm Dương .
Tóm lại , luật tương ứng tương cầu , có thể gồm trong yếu điểm sau đây :
2 vật mà được tương ứng tương cầu , phải có chỗ tương đồng , tương hợp thì mới có sự cảm thông và biến hoá , nhược bằng tương khắc đến mức không thể dung nhau được nữa , đó không còn là hoà dịch hay lạc dịch mà là nan dịch , vì đã bị gián cách .
Những phần tử trong vũ trụ vạn vật bao giờ cũng tìm bạn đồng thinh để mà tương ứng , đồng khí để mà tương cầu .
Đồng thinh , đồng khí có 2 trường hợp :
A) 1 Âm 1 Dương gọi lẫn nhau .
B) Dương gọi Dương , Âm gọi Âm .
Nhưng cả 2 trường hợp đều đồng vọng , đồng dộ , bằng không cũng khó mà giao cảm . Tức là chỗ mà trước đây đã gọi : nội ngoại tương ứng , và phải tuỳ thuộc chữ thời mới được . Chưa phải lúc , chưa đúng lúc , không hợp tình , không hợp lí , đều không thể có sự giao cảm và biến hoá . Phải tuỳ thời , mới thực hiện được .
Ở quẻ Kiền có nói : Đồng thinh tương ứng ,đồng khí tương cầu : thuỷ lưu thấp , hoả tựu táo …Bản hồ thiên giả thân thượng , bản hồ địa giả , thân hạ , các tòng kì loại .
( Hễ đồng thinh thì tương ứng , đồng khí thì tương cầu . Cũng như nước thì chảy về những nơi ẩm thấp , còn lửa thì tụ lại ở những nơi cao ráo … Vật gì gốc nó ở trời thì thăng lên , gốc nó ở đất thì giáng xuống ; mỗi vật đều cùng theo 1 loại với mình .)
&&&
Luật Đồng thinh tương ứng , đồng khí tương cầu , lại đưa đến 1 cái luật khác , là cái luật Thân Tị , nghĩa là khắn khít , liền bên nhau , mặc dù có nhiều sự vật bên ngoài ta thấy xa cách rất lớn .
Ở quẻ Thuỷ địa Tị có viết : các vật liền khít với nhau , thì không chi bằng nước trên mặt đất . Liền với nhau mà không có sự phân cách …Phàm vật đã sinh trong trời đất không có thứ gì là không dính liền nhau mà có thể tồn tại được . Tuy rất cương cường nhưng chưa từng có cái gì đứng 1 mình được . Theo Đạo Tị , thì 2 ý chí phải tương cầu lẫn nhau , bằng không tương cầu thì phải tan rã .
Trong quẻ Tổn ,Trình Di nói : Trong thiên hạ không có gì là không có 2 phần . Phần 1 và phần 2 tương đối với nhau . Ấy là gốc của sự sinh hoá .

&&&

LUẬT TÍCH TIỆM.
Trở lại vấn đề biến hoá , lại nên để ý đến sự định nghĩa của 2 danh từ ấy . Tuy vậy cả 2 đều cùng 1 nghĩa , nhưng cũng có phần khác nhau . Biến là biến lần lần 1 cách từ từ khó nhận thấy được 1 cách rõ ràng ; còn Hoá là cuộc chuyển biến đã được hoàn thành , đã trở nên hiển nhiên . Hay nói cách khác Biến là tiệm biến còn Hoá là đột biến .
Dịch hề tự ( Văn ngôn ) có viết : Thần thí kì quân , từ thí kì phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố , kì sở do lai giả tiệm hĩ . ( Tôi mà thí vua , con mà giết cha , cái cớ đâu phải trong 1 sớm 1 chiều , nguyên do lần lần mà đến vậy ).
Sự tiệm biến , Dịch truyện gọi là Tích , nghĩa là chấp chứa lâu dài… Thiện bất tích bất túc dĩ thành danh , ác bất tích bất túc dĩ diệt thân . ( Điều thiện mà không chấp chứa lâu thì không đủ để thành việc thiện , điều ác mà không chấp chứa lâu , không đủ để làm hại thân ).
Sự sự vật vật , xét về phương diện bên ngoài thì thấy như là im lìm bất biến , mà kì thực bên trong , không 1 giây phút nào mà không có sự thay đổi ( thay cũ đổi mới ) . Cái học nguyên tử ngày nay không nói khác hơn .
Cho nên động và tịnh tuy thấy là 2 việc khác nhau , kì thực chỉ có 1 . Không có cái Động nào mà không có cái Tịnh làm điều kiện tất yếu , như trong trò chơi thả diều : diều mà lên được cao là nhớ có sợi dây buộc chặt nó ở bên dưới . Diều mà không có cái sức trì xuống ( âm hay tịnh ) không thể lên cao được . Cho nên mới nói : cao dĩ hạ vi cơ . ( cao lấy thấp làm nền ) . Dương lấy Âm làm gốc , Động lấy Tịnh làm nền là thế .
&&&
Luật Phản Phục :
Như trướcđây đã nói , luật biến động của Dịch là Cùng tắc Biến . Nhưng biến cách nào ? Biến trở thành cái trước .
Hào từ quẻ Thái của Kinh Dịch có câu : Vô vãng bất phục . nghĩa là không có cái gì có đi mà không có trở lại .
Hào từ quẻ Phục cũng có câu : Phản Phục kì Đạo , thất nhật lai phục , thiên hành dã . ( Đạo phản phục , 7 ngày lại trở về , đó là hành vận của đạo trời . Phản đây , là trở về nơi khởi điểm .
Hệ từ thượng , chương 7 có câu : Biến hoá giả , tiến thoái chi tượng dã . Biến hoá , tức là cái hiện tượng tiến rồi lui . Tiến rồi lui , lên rồi xuống …qua qua lại lại mãi mà không thôi , như cái thoi dệt cửi .
Phản phục là luật quan trọng nhất trong Đạo Dịch mà nó cũng là căn bản trọng yếu nhất của học thuyết Lão Trang . Sách Trang Tử , ở tạp thiên có viết : cùng tắc phản , chung tắc thủy , thử vật chi sở hữu … ( Hễ cùng thì trở lại , hết rồi lại bắt đầu : đó là tình trạng mà vật nào cũng có ).
Hoài Nam Tử cũng nói : Tích vu nhu tắc cương , tích ư nhược tắc cường , quan kì sở tích , dĩ tri hoạ phúc chi hương .
( Chấp chứa cái mềm lâu rồi , thì thành cứng , chấp chứa cái yếu lâu rồi , thì thành mạnh . Cứ nhìn vào chỗ chấp chứa ấy để mà biết cái họa hay phúc )
Vì Vật cực tắc phản , nên luật phản phục khuyên ta : Nguy giả , an kì vị giả dã ; cong giả , bảo kì tồn giả dã ; loạn giả , hữu kì trị giả dã . Thị cố : Quân tử an nhi bất vong nguy , tồn nhi bất vong vong , trị nhi bất vong loạn . Thị dĩ thân an nhi quốc gia khả bảo dã .
( Nguy , là vì yên với ngôi vị mình ; mất , là vì chắc ở sự còn mãi ; loạn , là vì cậy ở sự trị . Bởi vậy , người quân tử lúc yên không quên lúc loạn . Nhờ vậy , thân mới được yên , mà nước cũng có thể bảo toàn được ).
Đó là do cái nguyên lí : Âm trung hữu Dương căn , Dương trung hữu Âm căn , mà suy gẫm việc thiên hạ . Lão Tử có lẽ nhân đó mà đưa ra nhận xét sau này : Họa hề phúc chi sở ỷ , phúc hề họa chi sở phục . ( Họa là chỗ dựa của Phúc , Phúc là chỗ núp của hoạ ).
Chỉ biết giữ yên địa vị mình mà yên trí là nó sẽ không bao giờ mất , thì sẽ có nguy . Chỉ biết giữ lấy chắc nịch cho mình , thì tất sẽ mất . Cho lả đã yên trị rồi mà cậy thế buông trôi không phòng giữ , thì tất sẽ có loạn .
Nghĩa là , ở trong cái yên đã nằm sẵn cái nguy , ở trong lòng cái còn đã nằm sẵn cái mất . Ở trong lòng cái trị đã chứa sẵn cái loạn . Bởi vậy , yên có thể trở thành nguy , còn có thể sẽ mất , trị có thể sẽ mất . Dịch học bao giờ cũng khuyên ta phòng loạn hơn là trị loạn .
Chung qui đều do luật phản phục . Luật ấy do cái nguyên lí đã nói trước đây , là vật cùng tắc biến , vật cực tắc phản mà ra .
Dương Hùng trong sách Thái Huyền bàn về luật này cũng cho rằng ; hết thẩy mọi việc đều gồm trong 2 lẽ : chia rồi hợp , hợp rồi chia ( Nhất phán nhất hợp , thiên địa bị hĩ … Hoàn phục kì sở , chung thuỷ định hĩ …) Một chia 1 hợp ,Trời Đất đủ cả ở trong rồi … Trở lại chỗ trước , cái sau cái trước đều đã định rõ ở đây rồi ! Trong sách Ngữ Lục , Trình Y Xuyên cũng nhận như thế : Vật mà tiến đến chỗ cùng cực của nó , thì đi trở nghịch lại , lí là như thế . Có sống là có chết , có đầu là có cuối .
( Vật cực tắc phản , kì lí như thử . Hữu sinh hữu tử , hữu thuỷ hữu chung ) .
Tuy vậy , luật cực tắc phản không có nghĩa là phải đợi đến mức cùng cực của nó mới phản biến , mà thực sự , ngay trong thời kì sinh thành và thịnh vượng , sự vật cũng đã ngầm chứa mâu thuẫn đang âm thầm phá hoại bên trong rồi . Trong đồ thái cực , những điểm nhỏ âm nằm trong dương , dương nằm trong âm… là những chủng tử đối lập có 1 sức lực phá hoại đáng sợ .


&&&&&&


Ghi nhận :
Thế cho nên người xưa bảo , công thành thân thối , thật là hay . Mình làm to rồi phải nhường cho người khác làm , không nên tham quá ,. Mà tài sản nên phân chia cho khắp thiên hạ , mới bền lâu . Lúc xuống không bị ghét . Đừng để nước đến chân mới nhẩy , vì cuộc sống là thay đổi , hôm nay ta đúng , nhưng ngày mai ta sai ? Có ngờ đâu được ? Vậy phải thuận thiên hành đạo , lấy ý dân làm trọng . Ý dân là ý trời !
Như cố cưỡng lại , thì có được chăng sức nước vỡ bờ ?
Xưa Thương Ưởng ,Tần Thuỷ Hoàng đều theo dõi tư tưởng dân , xét nét từng hành vi , cũng là mong muốn biết trước cái ý dân , nhưng cách thi hành lại trái ngược ý dân , thay vì làm cho dân sung sướng … nên bị tan vỡ … cùng nhau đưa xuống chỗ bế tắc … thay vì khai thông mà làm ngược lại !
Than ôi kinh dịch đâu có dễ hiểu , có khi hiểu 1 đàng làm 1 nẻo ! Mà sai lầm chết người !
Chính vì thế , mà ta cần các bậc quân sư như Khổng Minh , Khương Tử Nha ,Quản Trọng … vì nhìn xa trông rộng , cân nhắc lợi hại…
VN bị kẹt xe , cũng là 1 tầm nhìn hạn chế , không tham khảo các nước khác !
Mà lại tham khảo vấn đề cờ bạc , casino , cá độ bóng đá ,cái mà ta chưa cần , phim ảnh sex , khiêu vũ …
&&&&&&

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2007

KINH DỊCH CHƯƠNG 3.1

Dịch Học Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Chương 3 . 1
DỊCH LÀ GÌ ?
Có kẻ cho rằng nguyên tự là hội ý 2 chữ Nhật và Nguyệt , để chỉ sự luân chuyển biến hóa của Âm Dương . Đó là theo Thuyết Văn của Hứa Thận . Nhưng cũng có thuyết cho rằng Dịch là chữ tượng hình con tích dịch tức là con kì nhông. Con kì nhông là 1 loài thú sống trên cây , luôn luôn biến đổi màu sắc theo tời gian và không gian . Đó là tượng trưng chữ Thời và chữ Biến , căn bản của Kinh Dịch . Biến đây là biến theo thời gian và không gian .
Sách Luận Ngữ có chép : Tử tại xuyên thượng , viết : Thệ giả như tư phù , bất xả trú dạ . ( Phu Tử đứng trên sông nhìn nước chảy than : Cứ chảy mãi như thế này ư , ngày đêm không bao giờ ngừng )
Theo Trịnh Huyền Dịch gồm có 3 nghĩa : Biến dịch ,Bất dịch và giản dị .
A) BIẾN DỊCH :
Trong Hệ Từ có viết : Dịch , cùng tắc biến , biến tắc thông , thông tắc cửu . ( Theo Dịch , thì có cùng mới có biến , có biến mới có thông , có thông mới lâu bền ) . Chữ Cùng do chữ Thân , và chữ Cung tức là thân bị đè nén phải co rút lại như bị dồn vào 1 cái hang ( huyệt ) . Đó là sự vật bị dồn về tuyệt lộ . Nhưng sự vật có bị dồn về “ cùng đường “ tất phải tìm con đường đi ra ( thông ). Theo Dịch , điều đáng lo nhất là chữ Cùng .
Hệ từ thượng có câu : nhất hạp nhất tịch chi vị biến , vãng lai bất cùng chi vị thông . ( 1 đóng 1 mở , gọi là biến , qua rồi lại , lại rồi qua , và qua lại không cùng , gọi là thông ).
Ở quẻ Kiền cũng có viết : Kháng long hữu hối , cùng chi tai dã . Đó là cái hoạ của những sự vật khi bị đưa vào chỗ cùng . Vì vậy Lão Tử khuyên ta : Khứ thậm , khứ xa , khứ thái . Cái thái quá sẽ biến cái gì ta muốn thành cái nghịch lại với cái điếu ta muốn .
Ở Hệ Tứ hạ , chương 8 có câu : Vi đạo dã , lũ thiên biến động bất cư , chu lưu lục hư , thượng hạ vô thường ; cương nhu tương dịch , bất khả vi điển yếu , duy biến sở thích .
Đạo của Dịch là biến mãi , biến động không ở yên nơi nào cả , chu lưu khắp , lên xuống không ngừng , cứng mềm thay đổi lẫn nhau ,cho nên không thể lấy cái gì làm chủ yếu điển hình ( cố định ) mà chỉ biến để thích ứng hay thích nghi mà thôi .
Câu văn trên dây đã định nghĩa được 1 cách rõ ràng về huyền nghĩa của Dịch . Lũ Thiên là biến thiên dồn dập mau lẹ như sóng cồn . Cương Nhu Tương Dịch , là biến dịch không những tự sinh , tự hoá Âm hay Dương riêng ra , mà là 1 sự tương sinh tương hoá do sự ảnh hưởng lẫn nhau của Âm và Dương . ( Chữ cương và nhu , là ám chỉ Dương và Âm ) . Nói tự sinh , rồi lại nói tương sinh , phải chăng là nói mâu thuẫn .
Đúng , mâu thuẫn là định luật bất di bất dịch của Dịch Đạo . Phải nói Dịch là tự sinh mà cũng là tương sinh . Nghĩa là tương sinh , nhưng khi sinh thì gồm cả tự sinh . Đoá hoa hồng nhờ có những trợ duyên bên ngoài mà nở ( tương sinh ) nhưng khi nở thì nở hoa hường chứ không nở thứ hoa nào khác ( tự sinh ) .
Câu : Vi đạo dã … duy biến sở thích . Có 2 phần : phần đầu nói về tính cách biến dịch ; phần sau nói về cách thức của sự biến dịch . Sự bất thường của Âm Dương phản phục biến thiên , nên không thể giữ mãi 1 hình thức nào dùng làm điển yếu : bất khả vi điển yếu .

&&&

Chú thích : Lên xuống bất thường là do luật Phản Phục .
Lấy 2 quẻ Bác và Phục , ta nhận thấy rõ lẽ ấy : Dương ở hào cao vót ( thượng cửu ) , nhưng là đã dọn đường đi xuống ở quẻ Phục 1 cách bất thường ( sơ hào ) . Dương , tuy ở sơ hào quẻ Phục , nhưng là thứ Thiếu Dương , sức cường tráng bắt đầu tiến lên và làm mòn lần lực lượng của ngũ Âm . Thượng , không hẳn là cao , Hạ , không hẳn là thấp . Cho nên mới gọi : Thượng Hạ vô thường . Cũng có khi ,Thượng không thành Thượng , Hạ không thành Hạ , mà Thượng lại thành Hạ , Hạ lại thành Thượng , gọi là Âm Dương phản trắc .

&&&

Cũng vì Bất khả vi điển yếu , nên Thiền mới đề xướng : bất lập văn tự . nhà Lão đề xướng : bất ngôn chi giáo . Danh từ thuộc về tịnh giới ,Dịch thuộc về động giới , lại động biến 2 chiều xuôi ngược vô thường . Và cũng vì thế mà danh từ dùng trong kinh Dịch , cũng như trong các kinh sách Đạo học đều là cưỡng dụng cho nên phải hiểu đến chỗ ; ý tại ngôn ngoại , thư bất tận ngôn , ngôn bất tận ý . Phải biết : Tinh nghĩa nhập thần để mà : Dĩ trí đạo dã . Nghĩa là phải biết Thân nhi hoá chi , văn tự trong giời nhị nguyên tịnh để tìm hiểu cái động không ngừng của sự vật .
Tóm lại ,đạo của Dịch là Biến , cái gì ở 1 chỗ cũng biến , cái gì chu lưu cũng biến , cái gì vô thường cũng biến , cái gì đối lẫn nhau cũng biến . Cái gì cũng biến , thì không có cái gì có thể dùng làm điển yếu cả .
Duy biến sở thích , là biến để cho : nội ngoại tương ứng với nhau . Dịch hệ từ Hạ ( chương 4 ) mới bảo : Đức bạc nhi vị tôn , trí tiểu nhi mưu đại , lực tiểu nhi nhiệm trọng , tiễn bất cập dĩ .
Đức mỏng mà ngôi cao , trí nhỏ mà mưu việc lớn , sức yếu mà gánh vác việc nặng , khó mà thành công . Lại còn nguy đến bản thân ,luôn cho cả xã hội chung quanh là khác .
Cách mạng bên ngoài ,vì vậy , cần phải đi đôi với cuộc cách mạng bên trong , cả 2 cuộc cách mạng phải tương ứng , tương thích , bằng không , cuộc cách mạng bên ngoài chỉ có cái hình thức hữu danh vô thực , không đủ sức hoá được bên trong , cũng như làm những cuộc cách mạng bên trong mà không có những cuộc cách mạng bên ngoài làm trợ duyên cũng khó mà thành công . Anh hùng tạo thời thế , đồng thời thời thế tạo anh hùng ,phải luôn bổ túc cho nhau . Đây là cái luật chung cho tất cả , bất cứ ở hình nhi hạ hay hình nhi thượng , nới đạo tu thân hay xử thế .Tương dịch mà cũng tự dịch .
Câu : Cương nhu tương dịch , gồm nắm hết phần trọng yếu của nghĩa thứ 1 của Dịch rồi .

&&&&&&&

LẼ BIẾN HOÁ :
Kinh Dịch nói biến , mà cũng nói hoá . Có khi lại nói chung : biến hoá , như nói : Cương nhu tương thôi , nhi sinh biến hoá . ( Mềm cứng ma sát nhau mà sinh biến hoá ) . Hoặc , tại thiên thành tượng , tại địa thành hình , biến hoá kiến dã . ( Ở trời là tượng , ở đất là hình , trông tượng và hình ấy mà ta thấy được sự biến hoá vậy )
Nhân có biến hoá mới có sự thay cũ đổi mới ( cách mạng ) . Hệ từ thượng chương 4 có nói : Nhât tân chi vị thịnh đức , sinh sinh chi vị dịch . Ngày 1 mới là đức thịnh , sinh rồi lại sinh gọi là Dịch .
Đức thịnh là Đức đến độ cực thịnh mới có thể biến đổi , biến cái cũ thành cái mới ( mà Lão Tử bảo : Tệ tắc tân : cũ ắt biến thành mới ) . Chữ sinh sinh là cái đạo cực động của Trời Đất . Hai chữ sinh sinh đã bao hàm cái ý tử tử , vì có sinh là có tử , mà có tử là đã có sinh . Phải có cái tử của cái sinh trước , mới có thể có được cái sinh sau , và như thế đến vô cùng . . Phải có tử mới có sinh ,cho nên tử tức là biến , nghĩa là hoá . Người sau dùng chữ hoá để chỉ sự chết .
Chữ sinh đây là nói về cái ý Nhất dương sinh của quẻ Phục đi tiếp theo quẻ Bác . Và như thế , 2 chữ sinh sinh đã diễn đạt rõ rệt 2 chữ biến hoá bất tận rồi của Dịch đạo . Theo Dịch , vì vậy không có chỗ nào dành cho cái chết cả . Hay nói cách khác , Dịch không tin có cái chết tuyệt đối , cái chết vĩnh viễn . Cái mà ta gọi là chết , chỉ là những cái chết bên ngoài , thay hình đổi xác , như cội cây qua thu là rụng mà không hề hấn gì đến thân cây , sự sống của các lá rụng trở về thân cây đợi qua xuân khác thì đâm chồi nẩy lộc . Cái nhìn của Dịch là cái nhìn tổng quát , chỉ thấy sự gì vật gì như là 1 Thái cực .Có 1 cái sống luôn luôn trường tồn mà Lão Tử gọi Tử nhi bất vong cho nên người ta chết ,là bỏ cái tiểu ngã mà trở về Đại ngã . Nghĩa là trong hư không mà ra , và nơi hư không mà trở về .
Về chữ Đức trên đây , không nên hiểu theo nghĩa thông thường của luân lí , mà phải hiểu nó là 1 danh từ siêu hình ám chỉ tất cả những hiện tượng của cái Lí Thái Cực . Đức đây gồm cả Âm Dương , Thiện Ác đồng 1 nghĩa với chử Đức mà Lão Tử dùng trong Đạo Đức Kinh .
Hai chữ Nhật Tân chứng minh Dịch là 1 thứ tư tưởng Động , không chấp nhận có sự im lìm . Bởi vậy , danh từ dùng để chỉ định 1 sự vật hữu hạn không thể còn dùng được nữa để nói lên sự biến hoá vô tận của sự sự vật vật trên đời . Dịch Kinh bởi thế mới có câu : Thư bất tận ngôn , ngôn bất tận ý .( Hệ từ thượng , chương 11 ) .
Đọc Dịch không nên quá chú ý đến Từ , mà nên lưu ý trước nhất đến Tượng của nó . Tượng là cái Ý gợi ra do Tượng mà có . Trình Di trong bài tựa quyển Chu Dịch có viết : Tiên Nho bỏ Ý để truyền lời . kẻ hậu học thì đọc lời mà quên Ý : Dịch , vì thế đã thất truyền từ lâu .
Trong Dịch Tuyết Cương Lĩnh cũng nói : Phục Hi vạch 8 quẻ , chỉ có mấy nét , bao quát hết lẽ muôn vật . Kẻ học Dịch mà hiểu được ở Lời thì nông , hiểu được ở Tượng thì sâu . ( Chu Hi )
Giớ đây , xin trở về vấn đề Biến và Hoá . Sự Biến Hoá làm cho thay đổi cả tính chất , làm cho hình hoá khí , khí hoá hình … và cứ thế lien miên bất tuyệt .
Trang Tử , trong thiên Đại Tông Sư cũng chủ trương như Dịch rằng : Vạn Hoá nhi vị Thuỷ , hữu cực dã . ( Muôn biến vạn biến mà chưa từng bao giờ cùng ) . Ông lại nói : Vật chi sinh dã , nhược sậu nhược trì , vô động nhi bất biến , vô thời nhi bất di .
Vật sinh ra , biến đổi thình lình , hoặc mau hoặc chậm , không có 1 cái động nào mà không có biến , không 1 lúc nào là không đổi dời . Chủ trương này của Trang cùng với của Dịch là 1 . Liệt Tử cũng nói : Sinh giả bất năng bất sinh , hoá giả bất năng bất hoá , cố thường sinh thường hoá . Thường sinh thường hoá giả , vô thời bất sinh , vô thời bất hoá .
Sinh là không thể không sinh , hoá là không thể không hoá cho nên thường sinh thường hoá . Thường sinh thường hoá là không lúc nào không sinh , không lúc nào không hoá . Đó là cái lẽ : bất đắc bất nhiên ( phải vậy , ví không phải vậy , không đặng ) .
Sự sinh sinh hoá hoá , đâu phải chỉ xảy ra trong sự vật , mà ngay nơi bản thân , nơi nội tâm ta đây , luật sinh sinh hoá hoá , vô thường cũng nhận thấy được rất rõ ràng 1 cách công khai hay tiềm ẩn .
Trong sách Trang Tử , Huệ Thi cũng nói : Nhật phương trung phương nghê , vật phương sinh phương tử . ( Bóng mặt trời chưa đứng là đã chênh , mọi vật đang sống là đang chết ).
Bình về cái lẽ : phương sinh phương tử , Quách Tượng bảo : Nói về cái lực mà không có lực , chả còn có cái gì mạnh bằng cái lực của sự biến hoá … Trời đất không lúc nào là không biến đổi . Thế sự đã đổi mới , mà cứ tưởng là còn cũ . Chiếc thuyền từng buổi từng đổi khác mà cứ tưởng nó vẫn như xưa . Trái núi từng ngáy từng đồi khác , mà cứ xem nó vẫn trơ trơ như trước . Hiện tay đang khoác tay mà lòng đã thay đổi ! Đều là ở những nơi sâu kín nhất của tâm hồn .
Cái ta trước đây không còn là cái ta hiện tại , cả cái ta và cái hiện tại đều qua , hà có thể còn giữ mãi được cái cũ mà được đâu ! Vậy mà thế nhân lại đâu biết được điều đó , cứ lại bảo rằng cái hôm nay gặp gỡ có thể buộc lại mà giữ mãi không mất , như thế há chẳng phải là ngu muội lắm hay sao !
Lời bình luận trên đây thật là xác đáng .
Khoa học nguyên tử ngày nay của Tây Phương cũng xác nhận cái thuyết : Hình hoá khí , Khí hoá hình , là đúng khi các nhà khoa học nguyên tử tuyên bố : vật chất là khí đọng lại mà thành hình , khí là vật chất tan ra mà thành khí . Hay nói 1 cách khác : Người ta có thể nói rằng khí lực và vật chất là 1 , hoặc là 2 bộ mặt của 1 thực thể
Tóm lại , sự sinh hoá của sự vật có chậm có lẹ , có khi mau lẹ đến đỗi trong 1 niệm của hiện tại là đã đi vào dĩ vãng rồi …lẹ hơn cái tia chớp trên nền trời tối mịt . Quan niệm biến dịch và sinh hoá này … đã ảnh hưởng rất sâu xa các nhà tư tưởng Trung Hoa về sau . Các triết gia đời Tống đến đầu đời nhà Thanh đều đã chịu ảnh hưởng cái nguyên lí biến dịch này của Dịch .

&&&&&&&

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2007

trở về mái nhà xưa

cuộc sống như 1 dòng sông chảy mãi không ngừng
không biết thay đổi thì như nước tù đọng , ung thối và độc hại
cũng như dòng máu trong người ta , phải thay đổi hàng ngày
xã hội cũng vậy , cuộc sống thì nhanh như tên bắn , nhưng ta thấy lại chậm như rùa
chưa có gì thay đổi , nếu dân tự thay đổi được không ?
không hề , vì dân chỉ là người thừa hành
nếu thay đổi sẽ phạm phải luật pháp , vì luật pháp nên đi trước 1 bước
nhìn xa trông rộng , nếu không thay đổi chế độ ăn uống ,đứa bé sẽ không lớn nổi
cho nó ăn cháo hoài sao ? phải cho nó ăn cơm , ăn rau và ăn thịt
pháp luật cũng thế ,phải tiến bộ không ngừng ...

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2007

quẻ Kiền

Quẻ Kiến
. Quẻ Thuần Càn
Nội quái, ngoại quái đều là Càn.


乾: 元, 亨, 利, 貞. Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Dịch : Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền. Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Về sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền là Khổng tử , nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời. Trời có đức “ nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) . Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử . người quân tử có bốn đức. Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời. Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời. Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời. Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời. Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi. Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi. Hào từ :Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào.
初 九: 潛 龍 勿 用 Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.
Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình.九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 . Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi. Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân). Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2. 九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎. Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu.Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi. Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2
九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎. Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu.
Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi. (Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi). Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định. Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi. Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được. Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời.
九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人. Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Giảng : Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua). Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi. Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã).
上 九 . 亢 龍 有 悔. Thượng cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận. Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu). Văn ngôn : giảng thêm: Hào 6 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn ngôn, tác giả Hệ Từ truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII, Tiết 9). Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử .
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 . Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát.
Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt. Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó. J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu. Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi. - Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”. Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ? - Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt. Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn. - Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được. - Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa. Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu” Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . . Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt.
*

PHỤ LỤC
Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh. - Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn) “rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.” - Tào Thăng (sách đã dẫn). “người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .) Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp). - Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối: “con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành. Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì.

hết: I. Quẻ Thuần Càn, xem tiếp:
2. Quẻ Thuần Khôn

đánh máy: Huyền Băng, sửa chữa và hiệu đính: Trương Củng, vnn, mọt sáchNguồn: Vnthuquan-Thư viện Online
&&&&&&&&&
( So sánh 2 người nói về quẻ kiền ,xem có gì hay )
&&&&&&&&&
Dịch kinh linh thể 4 – Kim Định – Triết lý an vi –
VI. NHỮNG CHẶNG TIẾN CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI THEO QUẺ KIỀN
Sau khi đã nắm đựơc mấy điểm then chốt về Kinh Dịch thì bước thứ nhì phải học về tiến trình chuyển hóa của tâm thức con người . Vì đó chính là tinh hoa của Kinh Dịch . Lộ trình tiến hóa đó được đề cập ngay ở đầu quyển Kinh nơi quẻ Kiền với lời Kinh như sau :
Kiền . Nguyên , Hanh , Lợi , Trinh .
Chữ hán
1. Sơ cửu : tiềm long : vật dụng
2. Cửu nhị : hiện long tại điền , lợi kiến đại nhận .
3. Cửu tam : quân tử chung nhật kiền kiền , tịch dịch nhược lệ : vô cữu .
4. Cửu tứ : hoặt dược tại uyên : vô cữu .
5. Cửu ngũ: phi long tại thiên : lợi kiền đại nhân .
6. Thượng cửu : kháng long hữu hối .
7. Dụng cửu : hiện quần long vô thủ : cát .
Chữ hán

Ðó là trang đầu của Kinh Dịch , có thể đại biểu cho cả sách . Chúng ta thầy một lối văn kỳ lạ , và nếu đừng về lý trí suông thì đó là một đoạn văn nhát gừng không cho thấy được gì đáng lưu ý đặc biệt , nhất là sau thời kỳ người Viễn Ðông được nuôi dưỡng trong cái học duy lý thì càng thấy xa lạ . Nhưng đã nói nội dung Kinh Dịch có tính chất lưỡng thê , nên không được dùng lý trí suông để tìm hiểu , vì như vậy sẽ chỉ thấy được có một chiều . Vậy phải dùng lối quan lối ngoạn , và lúc ấy sẽ nhận ra đó là một nền Minh triết linh động uyển chuyển . Quẻ Kiền đưa ra bốn chặng nền móng trong 4 chữ Nguyên Hanh Lợi Trinh .
Nguyên là điểm khởi phát
Hanh là chặng phát huy hanh thông
Lợi là chặng tựu thành
Trinh là kéo dài thành quả.
Nhìn qua bốn chặng trên chúng ta liền nhận ra tính chất phổ biến hay là vũ trụ theo nghĩa phi thời gian nên là miên tục trường tồn . Ðó cũng gọi là vòng trong . Trái lại vòng ngoài thuộc những sự vật bé nhỏ riêng rẽ có hình thể thì quá trình tiến triển đi theo tứ tự : sinh , thành , suy , hủy . Vì Kinh Dịch chuyên nói về vòng trong nên trình bày quá trình biến hóa của cuộc đại diễn thuộc vòng trong , nên không nói sinh , thành , suy , hủy nhưng nói nguyên , hanh , lợi , trinh . Bốn chặng tiến hóa chung này sẽ được quảng diễn trong 4 hào 2, 3, 4, 5 như sau :
Hào 1 - 6 : hào 1 và 6 đều nói lên chỗ quá đáng nên bảo đừng dùng : " tiềm long vật dụng " . Long là con vật thuộc huyền thoại không ai thấy , nên Kinh Dịch dùng để chỉ cái đức , cái linh lực , hay là cái nguyện vọng sâu thẳm nơi con người hướng đến trạng thái viên mãn tròn đầy cũng gọi là Ðạo Thể Viên Dung . Bao lâu chưa xuất hiện cái tâm thức đó thì không nên dùng : " tiềm long vật dụng " . Nói về triết thì bao lâu chưa đạt tâm trạng nhân bản tức là biết trọng nhân phẩm và tự do con người và tìm cách phụng sự con người mà đã vội dùng ngay những dữ kiện của giác quan để lý luận , tạo tác ra các triết thuyết , thì đó sẽ chỉ là cái học trục vật : y như đất là đất trải rộng ra trước mắt , bên ngoài con người , hoàn tòan hàng ngang sẽ thiếu chiều dọc tâm linh, nên là duy vật . Tiềm long là rồng ẩn còn dưới đất . Chữ đất hay ruộng là do hào 1 , 2 thuộc về địa .
Hào 6 cũng thế , nó chỉ trời nhưng là thứ trời cứng đơ đối kháng với người nên lời Kinh cho là biết tiến mà không biết thoái " kháng long tri tiến nhi bất tri thoái , chữ hán " . Cho nên dùng nó thì là duy tâm , duy linh một chiều chống đối với duy vật ở hào 1 , cả hai đều song song đối kháng như cái gông dài hai mươi lăm thế kỷ kìm kẹp làm ngột thở cái hồn Minh triết . Vì khi dùng 2 hào này thì đều là cái học xa người : trời quá trời, đất quá đất không liên hệ chi với người như hào 2 tuy thuộc địa và hào 5 tuy thuộc thiên nhưng nằm sát hai hào nhân là 3, 4 . Nên dùng 4 hào đó : 2, 3, 4, 5 mớ là "nhân dịch" hay là "kỷ dịch" có hướng nội . Còn khi dùng hào 1, 6 thì ra "vật dịch" . Dùng đến sẽ hối hận : "kháng long hữu hối, chữ hán" . Vì rằng "cùng chi tai dã, chữ hán" . Cái gì dù cao như trời mà đi đến chỗ quá đáng thì trước sau gì rồi sẽ dẫn tới tai họa . Như thế chỉ còn lại 4 hào 2, 3, 4, 5 .
Hào 2- "hiện long tại điền" là nói về tâm thức đã khởi xuất hiện trên mặt ruộng . Vì đây là hào 2 thuộc địa nên nói ruộng mà khi giải nghĩa theo lối " kỷ dịch " thì phải hiểu là tâm trạng thức tỉnh đối với đạo làm người ( nhân đạo ) nên lời Kinh nói : " Lợi kiến đại nhân " . Nếu hiểu thấp thì có nghĩa là nên đi gặp ông lớn ( để kiếm một ghế bộ trưởng ) , nhưng nếu giải theo lối Kỷ dịch thì phải hiểu là " Mỹ lợi " tức cái " lợi phổ biến của đợt an vi " và câu " lợi kiến đại nhân " chỉ có ý nói cần phải vượt qua giai đoạn trục vật thuộc hào 1 và 2 để tiến lên đợt Nhân bản tâm linh . Vì thế lời Kinh thêm rằng : " hiện long tại điền : thời xả dã , chữ hán " , khi long đức xuất hiện trong tâm hồn nào thì đó là thời xả , thời mà lý trí sẽ lơi ra khỏi cái nhìn duy địa , duy lý đặng đi đến những chân trời xa lạ của tâm linh (tiềm thức, vô thức) ; ở lì lại trong chặng lý sự ( địa thời ) tức là tự giam hãm mình trong đợt nhị nguyên đối kháng : đất chống trời , trời chống đất cả hai tạo nên những lý thuyết chống đối tiêu cực hay là trừu tượng son đẹt , nên cần thóat ra khỏi đó . Có hai lối thoát : một là bằng kinh nghiệm sống của hoạt động sẽ tả ở hào 3 , hai là bằng lối "thù tĩnh đốc vô vi" ở hào 4 .
Hào 3- "quân tử chung nhật kiền kiền" quân tử suốt ngày họat động . Dùng hai chữ kiền kiền nói lên tính cách an vi , chú trọng tới làm nhưng không còn chấp đối tượng như có thể xảy ra ở hào 1, 2 . do đó nói kiền kiền mà không nói kiền cái chi , nghĩa là chỉ có động từ , nên lời kinh còn chua thêm "dữ thời giai hành , chữ hán" luôn luôn hành động . Hành động mà không có đối tượng để tránh cho lòng khỏi chấp vào đâu cả , đặng thong thả tiến lên cõi Ðạo là cái toàn thể bao la gồm cả trời đất người chứ không quy hướng vào một đối vật bé nhỏ nào hết .
Ðó là lối họat động , kế đến là lối cảm tình cũng thế : "tịch dịch nhược lệ: vô cữu" , chiều đến còn như lo săng sắc : không lỗi. Chữ lệ có nghĩa là mạnh mẽ ( lệ thanh : lớn tiếng , lệ tinh: phấn khởi tinh thần) như "lo mạnh" , nhưng không lo về một cái gì nền toàn bầu tình tứ giốc vào việc lo, nhưng không có đối tượng nên nói "như lo mạnh : dịch nhược lệ" . Thực ra đây là lo cho Ðạo , lo cho đường tiến hóa nên chữ "dịch" ở hào 3 thêm bộ tâm vào chữ dịch là nét đặc trưng của hào 3 là Nhân Bản , mà nên Nhân Bản chân thực bao giờ cũng phải chú trọng đặc biệt đến việc chuyển hóa tâm thức con người nên nói : "cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch, chữ hán" , do đó mà còn phải tùy thời để cải hóa tâm hồn .
Cũng có một chữ nữa nói lên tính chất đi vào nội tâm là chữ "tịch" , tịch là đêm tối , nếu ngày biểu thị ý thực lý trí thì đêm biểu thị tác động huyền diệu của các sức lực thiêng liêng tai mắt không thấy được , nhưng luôn luôn làm việc để đưa con người đạt tới trình độ thông hiểu để giải thóat . Bởi thế thay vì duy lý thí dụ "ngôn ngôn thì đây nói "kiền kiền" : thay vì nói lên bứơc rẽ đi từ "vật dịch" tiến vào "nhân dịch" , "kỷ dịch" .
Vào đến kỷ dịch thấy mở ra hai lối : một là nhất hạp , hai là nhất tịch . Nhất hạp là lăn lưng vào đời sống : un engagement , một bước đi vào cuộc sống sinh lý, xã hội như lập gia đình , tìm địa vị , giúp cải thiện xã hội . Nếu không đi qua đợt này thì khó phát triển hết mọi khả năng con người , vì đây thuộc giai đoạn tán , tán là một "nửa" của Ðạo : nửa âm; có làm tròn nửa âm thì mới bước sang "nửa" dương , và khi làm tròn nửa dương là "tụ vào, quy tâm" thì mới đạt Ðạo là cái bao gồm cả âm lẫn dương : "nhất âm nhất dương chi vị đạo" . Vì thế lời Kinh được bàn rộng rằng : "Quân tử tiến đức tu nghiệp . Trung tín sở dĩ tiến đức dã . Tu từ lập kỳ thành sở dĩ cư nghiệp dã . Tri chí chí chi , khả dĩ cơ dã . Tri chung chung chi ; khả dĩ tồn nghĩa dã , chữ hán" .
Muốn lăn lưng vào đời theo lối hiền triết thì cần tiến đức tu nghiệp . Muốn tiến đức thì phải lấy hai chữ trung tín làm nền . Muốn tu nghiệp phải biết tu từ để đạt đến độc lập . Lập là bước thứ ba trong tiến trình học tập gồm 4 bước là học , hành , lập , quyền . Vậy chớ hiểu tu từ là luyện văn chương hay sáng tác văn nghệ , nhưng phải hiểu từ theo nghĩa uyên nguyên là lời vô ngôn hay lời Tự sự theo nghĩa Logos của cố hiền triết Hy Lạp hay Vac của nền minh triết Ấn Ðộ . Hiểu cụ thể thì có thể là những lời trong Kinh Dịch phải biệt ngoạn biết chiêm .
&&&&
Muốn tu từ theo nghĩa sơ nguyên thì cần vừa phải biết chỗ chí cực mà cũng vừa phải đi tới chỗ chí cực . Có thế mới hiểu đặng thiên cơ (là điều cần cho được lập kỳ thành) , phải biết chỗ cùng cực , và làm cho trọn vẹn thì mới tốt nghiệp . Ðó là một sứ mạng gồm cả nội thánh lẫn ngoại vương , nên hết sức cao trọng . Còn nếu để mình trụt cuống đợt cưỡng hành , lợi hành ở hào 1 , 2 thì sẽ chấp vào một đối tượng bé nhỏ mà không còn là kiền kiền , không còn là triết lý bằng động từ . Vì thế tuy lo mà không mắc lỗi .
Ở đây nên chú trọng đến mấy chữ "tri chí chí chi , tri chung chung chi" . Ngược với hào 6 nói "cùng chi tai dã" hay hào 1 "tiềm long vật dụng" . Tại sao hào 3 hô đi đến cùng cực mà hào 6 lại nói "cùng cực là tai họa" ? thưa khác nhau vì hào 3 thuộc nhân , càng cùng cực thì càng đi sâu vào nhân tính . Cho nên ở hai hào nhân đều hô đi đến cùng cực: có chí trung (kỳ trung) thì mới đạt chí hòa . Nói khác nếu hỏi biết đâu là chí , biết đâu là trung ? Thì thưa rằng : chí hay trung đều không ở đây không ở trời nhưng ở nơi người . Vì thế đến hào 4 nói về nhất tịch , un disengagement , còn cách mạng hơn nữa là hô nhảy vào uyên tuyền , tức là đi đến cùng cực .
Cũng nên ghi nhận xét sau : ở hào 3 cũng như hào 4 đều không nói tới Long , là vì hai hào này thuộc Nhơn , nên dùng chữ quân tử là chủ thể thay cho chữ Long . Hào 4 không có chủ thế thì hiểu ngầm là cùng một chủ thể như hào 3 .
Hào 4 -"hoặc dược tại uyên : vô cữu" , hoặc nhảy vào uyên mặc: không lối . Phương pháp "dược tại uyên" này mạnh hơn lối "kiền kiền" ở hào 3 . hào 3 gồm 3 bước , một bước ngầm là lơi ra khỏi lý trí thuộc hào 1, 2 . Còn hai bước tích cực thì một là họat động (kiền kiền) hai là vun tười tâm tình (dịch nhược lệ) . Hào 4 cũng theo hướng "kỳ dịch" như hào 3 nhưng đi mạnh hơn : về tiêu cực không phải lơi ra khỏi lý trí nhưng là chống lại lý trí và để sự chống lại được mạnh mẽ thì nhảy vào uyên mặc : đoạn tuyệt không những với lý trí mà luôn cả với hành động và cảm tình .
Vì thế lời Kinh cho là cách mạng : "hoặc dược tại uyên : kiền đạo nãi cách, chữ hán" , nhảy vào hố thẳm là cách mạng . Nếu gọi hào 3 là "hữu vi" thì dược tại uyên là "vô vi" . Tuy nhiên không lỗi vì còn đang trong tiến trình dịch lý là đạo hành vi , nên được tại uyên chỉ là nói lên tính cách linh động uyển chuyển có lên mà cũng có xuống : "thượng hạ vô thường phi vi tà dã: tiến thoái vô hằng phi lý quần dã , chữ hán" , lên xuống không có luật thường miễn là không làm điều tà vậy ; tiến thoái không có luật nhất định miễn không xa lìa xã hội . Tuy nhiên lại đặt chữ hoặc chỉ ý nghi ngờ vì đây là trạng thức có phần nguy rất dễ ly quần , xuất thế, nên lời kinh nói :
"Thượng bất tại thiên
Hạ bất tại điển
Trung bất tại nhơn
Cổ hoặc chi
Hoặc chi giả nghi chi dã".
Chữ hán

Trên chưa đã trời (trời khởi từ hào 5, đây mới là hào 4) dưới đã lìa đất (đất hết hào 2) giữa không ở với người . Vì tuy hào 4 thuộc nhân nhưng cái vị trí (hào 4) là dương : hào dương ở vị dương cả hai đều cứng : như thế có cứng thiếu mềm khó thích nghi với xã hội , nên lời kinh nói : cửu từ trùng cương nhi bất trung, chữ hán" : hào 4 hai lần cương thì không phải là trung . Vì trung phải ở giữa cương và nhu . Toàn cứng thì sao mà trung , bởi vậy khi trải qua giai đoạn này cần phải nghi ngờ mới không lỗi .
Hào 5- "phi long tại thiên , lợi kiền đại nhân" .
Hào 5 thuộc thiên nên chữ long tại xuất hiện . Lần này xuất hiện trên trời, bay lượn thong thả . Ðó là tả cái cảnh đạt Ðạo : Ðạo của thánh nhân . Lợi kiền đại nhơn : cũng một câu như hào 2 , nhưng ở hào 3 đại nhân được nhắm tới như một ý tưởng . Còn đây là đã đạt được đích , hành giả đã trở thành đại nhân rồi , nên ở hào 5 kể ra đức tính của đại nhân như sau :
Phù đại nhân giả
Dữ thiên địa hợp kỳ đức
Dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh
Dự tứ thời hợp kỳ tự
Dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung
Chữ hán
Thật là đúng nghĩa đại nhân mà sứ mạng là hòa là hợp là giao là hội (xem Nhân Chủ) . Vì cho được thành đại nhân theo đúng nghĩa thì không còn để mình bị tù túng trong một cái duy nào nữa : không duy địa , duy thiên , hoặc duy nhân ; nhưng là hợp với linh đức của trời đất , hợp với sáng soi của nhật nguyệt, hợp với tiết diệu của 4 mùa , hợp với cát hung của quỷ thần .
Mấy câu này nói lên mức "chí thành" của hào 5 : tất cả những gì đã khởi sự ở các hào 2, 3, 4 đều được kết tinh nơi hào 5 , nên mở ra rộng tới tận cùng bờ cõi vũ trụ , nhờ đó mà đại nhân đạt độ sáng tác tạo dựng . Tất nhiên không có ý nói về sáng tác văn nghệ nhưng về "an bang tế thế" khó hơn nhiều vì đòi phải biết đến thiên cơ , để hướng dẫn thiên hạ . Phải nhìn ra được rất nhiều cách giải quyết cho một vấn đề và biết chọn một lối ứng đáp thích hợp hơn cả . Nhờ đó trở thành uyển chuyển linh động không bị bò sát vào một lối giải quyết nhưng có thể "vô khả bất vô khả" . Ai làm được như thế , nếu không phải là bậc "phi long tại thiên" nghĩa là bay rất cao đặng nhìn rất rộng hầu có thể tạo với tác , nghĩa là thích ứng với mọi hoàn cảnh . Nếu đọng lại ở "hữu vi" hay "vô vi" thì làm sao linh động được như thế . Bởi vậy lời kinh nói : "quân tử kiến cơ nhi tác , chữ hán" và "thủ xuất thứ vật vạn quốc hàm ninh , chữ hán" , người hướng dẫn (đi đầu) thiên hạ , làm cho vạn quốc được hàm ân , tức là được hưởng an ninh . Vì đó là hậu quả của "thượng trí dã" . Vì thế lời kinh nói :
Ðồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu.
Thủy lưu thấp , hỏa tựu táo
Vân tùng long , phong tùng hổ
Thánh nhân tác , nhi vạn vật đổ
Bốn hồ thiên giả thân thượng
Bồn hồ địa giả thân hạ
Tắc các tùng kỳ loại dã .
Chữ hán.
&&&&
Nhờ nền minh triết phổ biến không duy thiên hay duy địa , mà có thủy có hỏa , có lên có xuống , có thân thượng mà cũng có thân hạ , nên không một khuynh hướng nào bị ức chế , nhưng được phát triển tùy tài . Ðó là cái sáng tác của thánh nhân khiến hết mọi người đều xem thấy đều được hưởng nhờ .
Hào 6- Ðã nói trên : "dùng thì hối" . Lời kinh thêm lý do : "tri tiến nhi bất tri thoái , tri tổn nhi bất tri vong , tri đắc nhi bất tri tang , chữ hán" , biết tiến mà không biết thoái , biết còn mà không biết mất , biết đắc mà không biết thất . Ðó là lối nhị nguyên độc khối một chiều , nên thiếu linh động . Vì thế tiếp sang hào dụng cửu .
Dụng cửu : không có hào 7 mà lại có dụng cửu , đó là một nét đặc trưng của quẻ Kiền . Dụng cửu được thêm vào để nói lên 7 đợt tiến hóa của con người , vì đó là luật trời "thiên tắc" . "Kiền nguyên dụng cửu : nãi kiến thiên tắc, chữ hán", mà thiên tắc là "lục hào phát huy , bàng thông tình dã , chữ hán": cả 6 hào phát huy, gần nhau mà thông hội. Ðây gọi là "tắc thiên" cao hơn nghi thiên , oán thiên v.v.
Tại sao trên đã gạt bỏ hào 1 và 6 mà đây lại gồm cả 6 ? Thưa không chuyên dung , nhưng bao hàm do sự lân cận : hào 2 liền với hào 1 cùng đất , hào 5 liền với hào 6 cùng thiên . Sở dĩ bao hàm được vì không nói ra , không viết ra . Chính ví không nói ra nên hiệu năng toàn triệt . Bởi vậy lời kinh nói "bất ngôn sở lợi đại tai hỷ , chữ hán" : không nói ra nên lợi rất lớn ! Và sự không nói diễn đạt bằng câu "hiên quần long vô thủ, chữ hán" : hiện ra một đoàn rồng không đầu , đòan rồng là 6 hào hay chia ra ba cặp , chỉ Tam tài quy vào Nhất thể như Ðầu . Nhưng Thể đây là tiềm thể u linh không xuất hiện nên gọi là vô thủ .
Nói vô thủ tức cũng là vô vĩ , vô thân , vô túc , nên không cần chỗ để chân hay dựa đầu . Không có gì nên không phải ở đâu , đó là thần , vì "thần vô phương". Chính vì vô thủ nên diệu dụng như thần , bao hàm khắp hết các đợt tiến của con người và sẽ tùy thời , tùy trình độ mà dùng hào này hào kia uyển chuyển đặng đi lên trời : "vị bộ nhơn với lập thành , thời thừ lục long dĩ ngự thiên , kiền đạo biến hóa . Các chính tính mệnh , bảo hợp như đại, chữ hán" : sáu nấc tiến , tùy thời mà thành tựu . Tùy thời mà cỡi 6 con rồng để đi lên trời . Thì mọi loài sẽ tiến theo đúng cái tính của mình gây nên cuộc thái hòa trong vũ trụ .
Ðó là lộ trình tiến hóa được tả lại trong quẻ Kiền nhằm giúp cho mọi vật giữ được tính mệnh để duy trì sự hòa hợp cùng tột .
Ðó là cứu cánh của con người mà xưa kia thánh nhân đã nhằm khi làm ra Kinh Dịch với mục đích giúp con người thuận theo cái lý của tính mệnh : "tích giả thánh nhân chi tác Dịch dã , tương dĩ thuận tính mệnh chi lý , chữ hán" (thuyết quái 2 )

&&&&&&&&

Ghi nhận riêng :
Bây giờ , 2007 , thì ứng vào quẻ nào ? Làm sao biết cách xử dụng ?
Chứ học như con vẹt 64 quẻ , thì có áp dụng được không ?
Làm sao biết thuận thiên hành đạo ?
Hay là lấy đại 1 quẻ nào đó chăng ? Bởi thế ,có mà như không ? Vì chả ai biết cách xủ dụng Kinh Dịch ?
Môn võ công bí truyền này ,chỉ truyền cho ai có nội lực cao siêu , đả thông Nhâm Đốc nhị mạch ? Như Trương Vô Kị hay Đoàn Dự ?

&&&&&&&&

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2007

Đạo Đức Kinh 71

Lão Tử Đạo Đức Kinh – Nguyễn Hiến lê
&&&
71) Phiên âm :
Tri bất tri thượng , bất tri tri bệnh . Thánh nhân bất bệnh , dĩ kì bệnh bệnh . Phù dung bệnh bệnh , thị dĩ bệnh bệnh .
&&&
Gọn quá hoá tối . Câu đầu : những chữ tri bất tri , bất tri tri , không ai biết tác giả muốn nói gì . Chỉ có thể đoán nghĩa thôi .Chúng ta đã thấy 4 cách đoán :
1) Tri bất tri thượng , là biết cái không thể biết được , tức đạo thì là cao minh . Nhưng còn bất tri tri bệnh , là không biết cái gì có thể biết được , tức cái tri thức vụn vặt của thiên hạ , thì cũng đáng khen chứ , sao lại gọi là bệnh , là sai lầm ? Giảng cách đó nghe không thông .
2) Tri bất tri , nghĩa cũng giống như học bất học , trong chương 64 , biết được cái vô tri vô thức , tức mỗi ngày giảm dần tri thức của mình đi, cho tới hồn nhiên , chất phác , như vậy là cao minh . Nhưng còn bất tri tri , thì dịch ra sao ? tất cũng phải dịch như cách trên nghe cũng không xuôi .
3) Biết mà cho là mình không biết , thì là cao minh . Không biết mà cho là mình biết , thì là sai lầm . Hiểu như vậy thì câu này đả quan niệm : Tri chi vi tri chi , bất tri vi bất tri . của Khổng Tử . Cách hiểu này được nhiều người theo .
4) Biết mà làm ra vẻ ngu tối , không biết thì là cao minh .Trong bản dịch dưới đây, chúng tôi theo cách này vì hợp với chủ trương : hoà kì quang .( che bớt ánh sáng của mình đi ) và : tri giả bất ngôn .

Biết mà làm ra vẻ ngu tối là cao minh . Không biết mà làm ra vẻ biết rõ , sáng suốt là sai lầm . Thánh nhân sở dĩ không có tật sai lầm đó vì nhận cái tật đó là tât .( dĩ kì bệnh bệnh – chữ bệnh trên là động từ , chữ bệnh dưới là danh từ ) . Cho cái tật sai lầm đó là tật cho nên mới không sai lầm .

&&&&&&

72) Phiên âm :
Dân chi uý uy tắc đại uy chí . Vô hiệp kì sở củ , vô yếm kì sở sinh . Phù dung bất yếm , thị dĩ bất yếm . Thị dĩ thánh nhân tự tri bất tự hiện .Tự ái bất tự quí . Cố khứ bỉ thủ thử .
&&&
Dịch nghĩa :
Dân mà không sợ sự uy hiếp ( tức hà chính , bạo hình ) của vua thì sự uy hiếp lớn của dân sẽ đến với vua ( tức dân sẽ nổ loạn ) . Đừng bó buộc đời sống của dân ( để cho dân an cư ) , đừng áp bức cách sinh nhai của dân . Vì không áp bức dân nên dân mới không bức lại vua ( không phản kháng ) .
Vì vậy , thánh nhân biết quyền năng của mình mà không biểu lộ ra , yêu cái đức của mình mà không tự cho là tôn quí . Cho nên bỏ cái sau ( tự hiện , tự quí ) mà giữ cái trước ( tự tri ,tự ái ).
Câu đầu , chữ uy có người hiểu là : cái đáng sợ . Hoặc uy quyền ( dân không sợ uy quyền của vua thì vua mau được uy quyền )
Câu thứ 2 , có người hiểu là : đừng làm hẹp chỗ ở của dân , đừng chê chỗ ở của mình là hẹp .
Đoạn dưới , tự tri , tự hiện ,tự ái , tự quí , là biết mình , không khoe ,yêu mình , quí mình .
#
Ghi nhận riêng :
Những nước nghèo , bị kìm kẹp , độc tài hà khắc , dân chả làm được gì cả , vì như là 1 cục bột , 1 khúc gỗ , vô cảm …không sao đủ lực áp bức vua được … Nhưng nước bị mất là do ngoại bang , do thế lực ngoài mà thôi ! Khi có nguy biến , trong nước dân bất hợp tác , ví có hợp tác cũng vô ích , vì không có đầu óc , ù lì , như cục bột , chì sai đâu làm đó , máy móc .
Bây giờ , mất nước do Kinh tế , lực sản xuất kinh tế trong nước yếu kém , nên kinh tế nước ngoài tràn vào , lũng đoạn . Thế cho nên , sức dân quan trọng . Làm cho dân hiểu biết và hợp tác là nhiệm vụ của bậc trên .
Giáo dục chương trình hay , giỏi , tạo trí thức cao , tạo 1 nền kỹ thuật cao . mới đủ lực chống lại giặc kinh tế nước ngoài .
Chứ dùng người yếu kém mà cho giữ chức vụ cao , bổng lộc nhiều .Thì dân chả muốn tiến bộ ? Vì học nhiều mà không trọng dụng thì học làm gì ?
#
&&&&&&

73) Phiên âm:
Dũng ư cảm tắc sắt , dũng ư bất cảm tắc hoạt . Trú lưỡng giả hoặc lợi hoặc hại , thiên chi sở ố ,thục tri kì cố ? Thị dĩ thánh nhân do nan chi .
Thiên chi đạo , bất tranh nhi thiện thắng , bất ngôn nhi thiện ứng ,bất triệu nhi tự lai , thiện nhiên như thiện mưu .
Thiên võng khôi khôi , sơ nhi bất thất .
&&&
Dịch nghĩa :
Mạnh mẽ về dám làm ( tức quả cảm cương cường ) thì chết . Mạnh mẽ về không dám làm ( tức thận trọng như nhược ) thì sống . Hai cái đó cùng là mạnh mẽ , mà 1 cái được lợi , 1 cái bị hại . Ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó ( cái cượng cường ) ? Dẫu thánh nhân cũng còn cho là khó biết thay .
Đạo trời không tranh mà khéo thắng , không nói mà khéo đáp , không gọi mà vạn vật tự tới , bình thản vô tâm mà khéo tính mọi việc . Lưới trời lồng lộng thưa mà không lọt .
Bất ngôn nhi thiện ứng , nghĩa cũng như câu Thiên hà ngôn tai , tứ thời hành yên , vạn vật sinh yên . (trong Luận Ngữ ). Bốn mùa qua lại , vạn vật sinh trưởng , đó là trời khéo đáp.
Bất triệu nhi tự lai , có người dịch là : trời không đợi gọi mà tự tới . Bình thản vô tâm , tức là thuận theo tự nhiên , không có tự ý .
#
Ghi nhận riêng :
Mạnh mẽ về dám làm , thì chết ? Như xây cầu Cần Thơ , làm liều , làm nhanh mạnh ? Đúng như thế không ? Chúng ta hay đốt giai đoạn , như muốn trồng cây mau có trái ăn ? Làm sai luật thiêh nhiên . Muốn tiến nhanh , nên tai hoạ ẩn sau đó ? Như nhà máy thải chất độc hại , chạy ra sông và ta lấy uống ? Không chịu làm xủ lí nước thải nên bị hại ! Chặt cây rừng lấy củi , gỗ , và lấy chỗ trồng lúa , xây nhà máy … nên bị nạn lụt …
Thế nên Lão Tử quá giỏi về trị nước ! Tính trước tính sau cho cặn kẽ , rồi mới làm , mới không bị hại !
Như vụ làm lệch giờ đi học , giờ đi làm . Gây xáo trộn lung tung , mà chưa chắc nạn kẹt xe được giải toả ? Phụ huynh phải nghỉ làm để mà đưa đón con cái , có thể lợi 1 mà hại 10 ?
#

&&&&&&

74) Phiên âm :
Dân bất uý tử , nại hà dĩ tử cụ chi . Nhược xử dân thường uý tử nhi vi kì giả , ngô đắc chấp nhi sát chi , thục cảm ?
Thường hữu ti sát giả sát . Phú đại ti sát giả sát , thị vị đại đại tương trác . Phù đại đại tượng trác giả , hi hữu bất thương kì thủ hĩ .
&&&
Dịch nghĩa :
Dân không sợ chết thì sao lại dùng tử hình dọa dân ? Nếu làm cho dân luôn luôn sợ chết , mà có kẻ nào phạm pháp ta cũng bắt được mà giết thì ai còn dám phạm pháp nữa .
( Sự thực không như vậy , cho nên hình pháp mới vô hiệu )
Có đấng ti sát ( tức đạo trời ) chuyên lo việc giết , nếu vua chúa thay đấng ti sát mà giết dân thì cũng như thay thợ đẽo . Thay thợ đẽo thí ít khi không đứt tay .
Kẻ nào làm bậy thì đạo trời sẽ không tha ( lưới trời lồng lộng , thưa mà không lọt ) vua không nên dùng chế độ hà khắc cực hình .

&&&&&&
#
Ghi nhận riêng ;
Nguyễn Hiến Lê soạn cuốn Kinh Dịch . Ghi là Đạo của người Quân Tử ?
Vậy chả lẽ Đạo của người khác không có ư ? Tiểu nhân không có đạo ư ? Cha con chồng vợ, sĩ nông công thượng không có đạo ư ? Dịch là quán quần kinh chi thủ , nghĩa là cho tất cả …
Nên ghi là Đạo của Người cầm quyền chính . Vì Kinh Dịch là đạo dạy trị nước …Phải nói là Dịch là sách dạy làm Người !
Chính dịch có ghi : gặp thời 1 tốt cũng thành công ? Tốt là tiểu nhân chăng ? Vì thề tốt cũng có thể làm vua , và tốt cũng phải tuân theo kinh dịch mà trị quốc cho hợp đạo ! Và có thể nhớ thế , mà việc cai trị dân sẽ tốt đẹp hơn và dân sẽ hạnh phúc hơn chăng ? Theo Dịch sẽ bớt sai lầm chăng ?
Trong đó Đạo Đức Kinh , cũng nằm trong Kinh Dịch mà thôi ! Cũng thoát thai từ kinh dịch !
#
&&&&&&

Đạo Đức Kinh 75

Lão Tử Đạo Đức Kinh – Nguyễn Hiến Lê .

&&&

75) Phiên Âm :

Dân chi cơ , dĩ kì thượng thực thuế chi đa , thị dĩ cơ .
Dân chi nan dị . dĩ kì thượng chi hữu , thị dĩ nan trị .
Dân chi khinh tử , dĩ kì thượng cầu sinh chi hậu , thị dĩ khinh tử .
Phù duy vô dĩ sinh vi giả , thị hiền ư quí sinh .

&&&

Giải nghĩa:
Dân sỡ dĩ đói là vì nhà cầm quyền thu thuế nặng quá cho nên dân đói .
Dân sở dĩ khó trị là vì nhà cầm quyền dùng chính lệnh phiền hà , cho nên dân khó trị .
Dân sở dĩ coi thường sự chết là vì nhà cầm quyền tự phụng dưỡng quá hậu , cho nên dân coi thường sự chết .
Nhà cầm quyền mà vô dục ,đạm bạc thì hơn là quí sinh , hậu dưỡng .

&&&

Câu thứ 3 : dân chi khinh tử … có bản không có chữ thượng , và có người dịch là : dân khinh chết vì dân trọng sự sống quá . Như vậy là trách dân , chứ không trách nhà cầm quyền , ý không nhất quán .
Liou Kia –hway dịch là : dân khinh chết vì đời sống của dân cực quá ( do lẽ nhà cầm quyền hà khắc quá ) . Hiểu như vậy nên câu cuối , Liou dịch tiếp là : chỉ người nào đời sống không cực quá mới biết quí sinh .
#
Nhận xét riêng : Thuế cao : 10 % đánh vào mọi thứ nhu yếu phẩm . Địa phương thu bao nhiêu thứ quỹ … Thêm thuế thu nhập cao , thuế xe cộ lưu thông , thuế đi học … thuế cò mối , thuế đen đỏ .
Luật lệ thì nhiều cái đau đầu , chồng chéo .
Trên thì xa hoa , nhậu nhẹt liên hoan lung tung …
Bởi vậy … làm sao theo Đạo Đức Kinh cho nổi .
#

&&&&&&

76) Phiên Âm :
Nhân chi sinh dã nhu nhược , kì tử dã kiên cường . Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thuỷ . Kì tử dã khô cảo .
Cố kiện cường giả , tử chi đồ : nhu nhược giả , sinh chi đồ . Thị dĩ binh cường tắc bất thắng , mộc cường tắc binh . Cố kiên cường xử hạ , nhu nhược xử thượng .

&&&

Dịch nghĩa :
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ . Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết thì khô cứng .
Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết , mềm yếu là cùng loài với sống . Vì vậy mà binh mạnh thì không thắng , cây cứng thì bị chặt . Cứng mạnh phải ở dưới , mềm yếu được ở trên .
&&&
Đoạn trên 2 chữ : vạn vật , nhiều nhà cho là dư .
Đoạn dưới ,câu : mộc cường tắc binh , chữ binh ở đây là động từ , các sách đều chú thích là chặt ,đốn . Có bản chép là chiết – gãy .

&&&&

77) Phiên âm :
Thiên chi đạo kì do trương cung dữ ! Cao giả ức chi , hạ giả cử chi .
Hữu dư giả tổn chi , bất tác giả bổ chi . Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc . Nhân chi đạo tắc bất nhiên , tổn bất túc như phụng hữu dư .Thục năng hữu dư dĩ phụng thiên hạ ? Duy hữu đạo giả .
Thị dĩ thánh nhân vi nhi bất thị , công thành nhi bất xử . Kì bất dục hiện hiền .
&&&&
Đạo trời giống như buộc dây cung vào dây cung chăng ? Chữ trương cung ở đây không có nghĩa là giương cung để bắn . Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống , ở thấp quá thì đưa nó lên ; dài quá thì bỏ bớt đi , ngắn quá thì thêm vào . Đạo trời bớt chỗ dư , bù chỗ thiếu . Đạo người ( thói thường của con người ) thì không vậy , bớt chỗ thiếu mà cấp thêm cho chỗ dư . Ai là người có dư mà cung cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ ? Chỉ có người đắc đạo mới làm như vậy .

&&&&

78) Phiên âm :
Thiên hạ mạc như nhược ư thuỷ , nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng ,dĩ kì vô dĩ dịch chi .
Nhược chi thắng cường , nhu chi thắng cương , thiên hạ mạc bất tri , mạc năng hành .
Thị dĩ thánh nhân vân : Thụ quốc chi cấu , thị vị xã tắc chủ , thụ quốc bất tường , thị vị thiên hạ vương , chính ngôn nhược phản .

&&&
Giải nghĩa :
Trong thiên hạ không gì mềm yếu bằng nước mà thắng được những vật cứng không gì bằng nó , không gì thay nó được .
Yếu thắng mạnh , mềm thắng cứng , không ai không biết lẽ đó nhưng không ai thực hành được . Cho nên thánh nhân bảo : Chịu nhận cái ô nhục trong nước thì mới làm chủ xã tắc được , chịu nhận tai hoạ trong thiên hạ thì mới làm vua thiên hạ được , lời hợp đạo đó nghe như ngược đời .

&&&&&&

79) Phiên âm :
Hoà đại oán tất hữu dư oán , an khả dĩ vi thiện ? Thị dĩ thánh nhân chấp tả khế nhi bất trách ư nhân . Hữu đức ti khế , vô đức ti triệt . Thiên đạo vô thân , thường dữ thiện nhân .
&&&
Giải nghĩa :
Giải được cái oán lớn thì vẫn còn chút oán thừa ( ở trong lòng ) như vậy sao gọi được là phải ?
Cho nên thánh nhân cầm phía bên trái tờ khế ước ( tờ hợp đồng ) mà đời không nhận . Người có đức thì cầm ( phía trái ) tờ khế , người không có đức thì đòi người ta phải trả .
Đạo trời không tư vị ai , chỉ gia ân cho người có đức .
&&&
Chấp tà khế : thời xưa khi ký hợp đồng với ai thì người ta làm 2 bản cùng trên 1 tờ . Mỗi người giữ 1 bản . Bản bên trái không được coi trọng bằng bản bên phải . Giữ bản bên trái tức là có ý nhường người , không tranh với người , không tranh nên không oán . Giữ như vậy để làm chứng tích với nhau , chứ không có ý bắt buộc bên kia phải thủ tín , phải trả nợ .
Chữ triệt vốn trỏ 1 thứ thuế ruộng ở đời Chu . Ở đây triệt có nghĩa là đòi , thu tiền của người kí khế ước với mình .
Đại cương chương này là dùng đức mà trị dân .

&&&&&&

80) Phiên âm :
Tiểu quốc quả dân , sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng , sử dân trọng tử nhi bất viễn tỉ .Tuy hữu chu dư , vô sớ thứa chi ; tuy hữu giáp binh , vô sở trần chi . Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi . Cam kì thực , mĩ kì phục , an kì cư , lạc kì tục .
Lân quốc tiêu vọng ,kê khuyển chi thanh tương văn , dân chí lão tử bất tượng vãng lai .
&&&
Giải nghĩa :
Nước nhỏ dân ít . Dù có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng đến . Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa . Có thuyền xe mà không ngồi ,có binh khí mà không bày .( bỏ hết văn tự ) . bắt dân dùng lại lối thắt dây thừng thời thượng cổ . Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon , quần áo tầm thường mà cho là đẹp , nhà ở thô sơ mà thích , phong tục giản phác mà lấy làm vui ( nghĩa là chỉ lo ăn no , mặc ấm ,ở yên , sống vui , ghét xa xỉ ) . Các nước láng giềng gần gủi có thể trông thấy nhau , nước này nghe được tiếng gà tiếng chó của nước kia , mà nhân dân các nước ấy đến chết già cũng không qua lại với nhau .
&&&
Bốn chữ thập bách chi khí , trong câu đầu , chúng tôi hiểu theo Hà Thượng Công ; không dùng những khí cụ đó , những cơ khí đó vì có cơ giới , thì có cơ tâm , xảo trá ,con người không có chất phác nữa .
Nhiều nhà dịch là : binh khí , lấy lẽ rằng thập bách trỏ quân đội 5 người là 1 Ngũ , 25 người là 1 Thập ,, 100 người là 1 Bách . Thập bách chi khí , là khí giới của quân đội .
Hai chữ kết thằng trong câu sau nghĩa là thắt dây . Khi chưa có chữ viết , người ta dùng dây thắt nút để ghi những việc cần phải nhớ .
Chương này tả quốc gia lí tưởng theo Lão Tử . Lão Tử muốn trở về xã hội nguyên thuỷ , và Phùng Hữu Lan bảo như vậy : đại văn minh tựa như dã man .

#
Ghi nhận riêng :
Trở lại thời kì đồ đá : quá dễ , ta tạo ra 1 trận đại chiến thứ 3 , bom nguyên tử nổ rền trời … tự nhiên dân chết hết , quả đất còn vài triệu người thôi , là sẽ thành 1 xã hội kiểu Lão Tử ngay . Cuốc đất trồng khoai , uống nước giếng , mặc áo lá chuối , đi chân đất … nhà ở hang hay túp lều tranh vách đất .
Chả lẽ Lão Tử là 1 nhà Chiêm Tinh Gia , đoán trước tương lai năm 2000 – 2020 ?
#
&&&&&&

81) Phiên âm:
Tín ngôn bất mĩ , mĩ ngôn bất tín .Thiện giả bất biện , biện giả bất thiện . Tri giả bất bác , bác giả bất tri .
Thánh nhân bất tích kí dĩ vị nhân kỉ dư hữu , kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa .Thiên chi đạo lợi như bất hại .Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh .
&&&
Giải nghĩa :
Lời nói chân thực thì không hoa mĩ , lời nói hoa mĩ thì không chân thực . Người thiện thì không cần phải biện giải ( vì hành vi tốt rồi ) , người nào phải biện giải cho mình là người không thiện .
Người sáng suốt hiểu đạo thì tri thức không cần rộng ( vì nắm được chân lí là đủ rồi ) , người nào trí thức rộng thì không sáng suốt , hiểu đạo ( vì tìm ngọn thì quên gốc )
Bậc thánh nhân vô dục , không tích trữ , càng giúp người lại càng có dư , càng cho người mình lại càng có nhiều . Đạo trời chỉ có lợi cho vạn vật chứ không có hại . Đạo thánh nhân giúp người mà không tranh với ai .
Câu đầu : Tín ngôn , có bản chép là tín giả , để cho nhất luận với thiện giả , biên giả , trí giả ở sau . Nhưng nghĩa cũng không khác mấy , người chân thực thì không trang sức bề ngoài , trang sức lời nói chả hạn .
Đoạn dưới , kỉ dư hữu , nhiều bản chép là dũ hữu , để nhất luật với dũ đa ở sau . Nghĩa cũng vậy .
#
Ghi nhận riêng :
Lí thuyết Lão Tử nhiều khi hiểu 2 nghĩa trái ngược . Người sáng suốt trí thức không cần rộng : nên cán bộ không cần bằng cấp , mà cần làm như điên . Không cần biện giải , vì cho là đúng , nên làm như điên ?
Vì thế sai rồi sửa như điên , mà vẫn hoàn sai !!!
Càng giúp người thì càng có dư : vì hối lộ , nên tiền thêm nhiều ,vì giúp kí hợp đồng , nên lại quả càng nhiều . Hoan hô Lão Tử ,quà thông minh đối với xã hội Tham Ô ?
Đạo thánh nhân giúp người mà không tranh với ai : vì ta độc quyền , nên đâu cần tranh giành ?
#
&&&&&&
Viết xong ngày giỗ Cậu26 / 8 Đinh Tị 1977.
Trong khi viết đau bao tử hoài . NHL.
Nhà xuất bản Văn Hoá TT , 43 Lò Đúc , Hà Nội .
&&&&&&

Thứ Sáu, 5 tháng 10, 2007

tiếng Việt ở nước ngoài

An Việt Toàn Cầu
Cộng đồng tiếng Việt tại hải ngoại
Dũng Vũ
Sau ngót 30 năm chiến tranh Việt Nam kết thúc, cộng đồng người Việt hải ngoại đã được chính phủ Việt Nam quan tâm đến bằng một ý nghĩa và một tình cảm khác. Từ vị thế của kẻ lưu vong từng bị kết tội "phản bội tổ quốc" vào những năm sau 1975, cộng đồng người Việt hải ngoại dần dần được công nhận là "khúc ruột ngàn dặm" và hôm nay đã trở thành một "một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam". Điều này được khẳng định trong Nghị quyết 36 ngày 26.03.2004 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam
[1] . Sự hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại Một hệ quả tất yếu của chiến tranh, xung đột ý thức, tôn giáo, mất tự do, đói nghèo là sự di cư. Câu tục ngữ "đất lành chim đậu" bất hủ của tiền nhân bao giờ cũng đúng: Một cộng đồng người Việt hải ngoại đã hình thành. Tính đến nay vẫn chưa có một thống kê chính xác về số người Việt hiện sống tại hải ngoại. Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam, "hiện nay có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước công nghiệp phát triển" [2] . Phần lớn tập trung tại Mỹ và Canada, kế đến ở châu Âu (như Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan,... ), Úc. Phần còn lại sống rải rác ở châu Á (như Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan,...) và ở một số nước Phi châu cũng như Nam Mỹ. Riêng tại các xứ tư bản, sự hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại đã trải qua nhiều giai đoạn: Trước 1975, người Việt đã có mặt tại một vài quốc gia. Ban đầu là nhóm di dân thời thuộc địa; phần lớn tập trung tại Pháp; không đông. Sau đó, vào thập niên 60-70, nhiều đợt sinh viên du học của miền Nam Việt Nam đã đến và các xứ tư bản như Mỹ, Canada, Nhật, Pháp, Tây Đức, Ý, v.v. theo các chương trình học bổng hoặc du học tự túc. Nhóm này tương đối đông nhưng vẫn chưa đáng kể. Sau 1975, cộng đồng người Việt hải ngoại mới thực sự trở thành một hình ảnh đáng chú ý. Nó đã tăng trưởng nhanh chóng qua nhiều đợt người rời bỏ xứ sở. Di tản 30.04.1975: Đợt này đánh dấu cuộc ra đi lớn đầu tiên của người Việt vào những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Cuộc di tản chủ yếu bằng đường biển bao gồm nhiều binh sĩ miền Nam, thân nhân của họ và thường dân. Hầu hết đã định cư một cách an toàn tại các nước tư bản, đại đa số tại Hoa Kỳ. Vượt biên: Đây là làn sóng di tản kế tiếp của người Việt: lớn nhất và bi thảm nhất. Hằng triệu người sau vài năm sống với chế độ mới, không còn chịu đựng nổi sự khắc nghiệt, đã rời bỏ quê hương đi tìm tự do bất chấp mọi hiểm nghèo. Họ vượt biên bằng đường bộ xuyên qua Lào, Campuchia vào Thái Lan, song phổ biến nhất vẫn là vượt biển bằng tàu bè thô sơ đến các nước láng giềng (như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Singapore, Phi Luật Tân, Đài Loan, Hồng Kông,...). Dự đoán có vài trăm ngàn cho đến nửa triệu người đã bỏ mình trên biển cả. Người vượt biển còn hứng chịu nhiều tại họa dọc đường: gặp cướp biển, phụ nữ bị hãm hiếp, bị bắt đưa vào Bangkok bán dâm, đàn ông bị thiêu sống, bị quăng xuống biển, người ăn thịt người vì đói, người giết người giành nước uống vì khát, người bị cảnh sát đánh đập lúc đặt chân vào bờ, tàu bị kéo lui ra biển và đắm chìm, v.v. Đối với người sống sót, đó là một biến cố hãi hùng không thể nào quên và cũng là nguyên nhân của một mối thù truyền kiếp. Người vượt biên được đưa vào những trại tị nạn nằm rải rác khắp Đông Nam Á (như Pulau Bidong, Kota Bharu, Galang, Palawan,...), hoặc ở Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, chờ ngày được một nước thứ ba chấp nhận cho định cư. Đa số đều muốn tới Mỹ và trên thực tế, số người được định cư tại Mỹ cũng đông nhất. Người đi Mỹ nhờ có thân nhân bảo lãnh, hoặc thuộc diện đặc biệt, quân nhân miền Nam, còn không, chỉ trông chờ vào chính sách nhân đạo của chính quyền Mỹ. Những người không đi Mỹ đã được nhiều quốc gia thứ ba cho đoàn tụ gia đình tại nơi họ có thân nhân hoặc được chấp nhận định cư vì lý do nhân đạo. Họ được phân phối đều ở nhiều nước trên thế giới theo một hiệp ước đặc biệt về chủ đề tị nạn Đông Dương được ký tại Genève vào năm 1979 [3] . Đoàn tụ gia đình: Tiếp theo đợt vượt biên là đợt đoàn tụ gia đình. Đợt này bao gồm những người ruột thịt như cha mẹ, con cái vị thành niên muốn đoàn tụ với người thân của đợt vượt biên đã được định cư. Đợt này đông không kém đợt vượt biên. Chương trình HO: Đây là một chương trình di dân đặc biệt của Hoa Kỳ dành cho quân nhân VNCH cũ và thân nhân của họ. Diện này khá đông. Khối xã hội chủ nghĩa tan rã: Ngay khi bức tường Bá Linh sụp đổ, dân chúng từ khối Đông Âu lũ lượt đổ ùa sang Tây Âu, trong đó có hàng vạn người Việt, chủ yếu là công nhân "lao động hợp tác". Phần lớn dân Việt Nam ở Đông Đức cũ được chính quyền Đức chấp nhận cho định cư. Nhiều người Việt Nam ở các nước khác (như Tiệp Khắc, Liên Xô,...) cũng được vậy. Ngoài Đức, nhiều nước Tây Âu khác (như Ý, Hòa Lan, Anh,...) cũng chấp nhận họ. Người không được chấp nhận có huynh hướng quay về chốn cũ hoặc tìm đến các nơi dễ làm ăn buôn bán ở Đông Âu. Xuất khẩu lao động: Ngoài những diện kể trên còn có diện "xuất khẩu lao động" sau này. Hàng trăm ngàn người sống rải rác ở các xứ Mã Lai, Đài Loan, Nhật, Đại Hàn, Ả Rập và Trung Đông. Đại đa số là người lao động chân tay, hoặc giúp việc nhà. Họ không định cư mà sẽ trở về nước khi hợp đồng lao động vài năm hết hạn. Sự thành công của người Việt hải ngoại So với các cộng đồng di dân ngoại quốc khác, cộng đồng người Việt vẫn còn non trẻ nếu tính từ cột mốc năm 1975 cho tới nay. Tuy vậy, sau 31 năm, từ hai bàn tay trắng, người Việt hải ngoại đã làm được những việc phi thường. Đáng kể nhất là hai mặt: kinh tế và tri thức. Về mặt kinh tế, họ đã vững mạnh. Không kể người mới định cư, đại đa số đã an cư lạc nghiệp; rất nhiều người có đời sống sung túc. Theo báo chí trong nước, mức thu nhập hàng năm của cộng đồng người Việt hải ngoại đạt khoảng 30 tỉ USD [4] . Bất kể giàu nghèo, hầu như ai cũng có khả năng giúp người thân trong nước cùng phát triển. Ngày nay, tại các thành phố lớn ở Việt Nam như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Cần Thơ,... nền kinh tế tư nhân đang phát triển bùng nổ, âu phần lớn cũng là nhờ nguồn tài trợ của thân nhân ở nước ngoài. Cũng theo báo chí trong nước, "trong 5 năm 2001 - 2005, lượng ngoại tệ của kiều bào gửi về Việt Nam đạt gần 16 tỉ USD. Riêng năm 2005, kiều hối ước đạt 3,8 tỉ USD (tăng 42,9% so với năm 2004), cao hơn cả tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện (khoảng 3,3 tỉ USD)" [5] . Đó là chưa kể nguồn ngoại tệ gián tiếp chảy về nước xuyên qua đường du lịch. Nguồn kiều hối còn có ích cho việc khác. Ông Trương Văn Phước, vụ trưởng Vụ Quản lý Ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, cho biết "khoản tiền 2 tỉ 600 triệu đô la do kiều bào gởi về trong năm ngoái (tức 2004 - DV) đã giúp cải thiện cán cân thanh toán của Việt Nam và giúp bù đắp 53% số thâm hụt của cán cân thương mại lên tới 5 tỉ 100 triệu đô la" [6] . Không những chỉ vững mạnh về mặt kinh tế, cộng đồng người Việt hải ngoại còn sản sinh ra một lực lượng tri thức đông đảo và xuất sắc chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Ước tính, một cộng đồng với khoảng 2,7 triệu người mà có đến 300 ngàn khoa học gia [7] , chuyên gia, kỹ sư, bác sĩ, v.v. với trình độ quốc tế, tức là hơn 10% dân số cộng đồng. Một con số khá cao. Người Việt hải ngoại có mặt khắp nơi trong hầu hết mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới. Từ việc thám hiểm vũ trụ cho đến việc chế tạo nhà máy nguyên tử, từ việc phát minh máy tính cá nhân cho đến việc chế tạo xe hơi, máy bay, từ việc tự động hóa nhà máy cho đến việc nghiên cứu vật lý lượng tử, từ việc viết hệ điều hành Windows cho tới việc làm phim hoạt họa Nemo, v.v., đâu đâu cũng có sự góp mặt của người Việt. Môi trường làm việc của họ là các viện nghiên cứu, đại học nổi tiếng: NASA, ESA, Frauenhof, Harward, Oxford, Michigan, Paris, Sydney, Montreal, Munich, Hamburg,... hoặc các tập đoàn, công ty lớn: IBM, Hewlett Package, Microsoft, Motorola, Intel, Acatel, Siemens, DaimlerChrysler, BMW, VW, Porsche, Boeing, Airbus, General Motor,... Họ đã góp phần không nhỏ vào việc phụng sự nhân loại và được quốc tế công nhận. Ngoài lĩnh vực khoa học kỹ thuật, còn vô số thương gia thành đạt. Tiếng Việt, một vấn đề lớn của cộng đồng người Việt hải ngoại Bên cạnh thành công, người Việt hải ngoại cũng có vấn đề. Tiếng Việt là một vấn đề nổi bật. Bức tranh toàn cảnh cho thấy tiếng Việt đang mai một dần theo từng thế hệ của cộng đồng người Việt hải ngoại: Thế hệ thứ nhất gồm những người cao niên đã có con và có thể có cháu. Họ thành thạo tiếng Việt. Thế hệ thứ hai là lớp trung niên. Họ sử dụng tiếng Việt ít nhuần nhuyễn hơn. Thế hệ thứ ba gồm thanh thiếu niên và trẻ nhỏ, khoảng 25 trở xuống. Thẩm năng tiếng Việt của thế hệ trẻ này thực sự đáng quan tâm. Nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan đã tạo nên một hiện trạng vừa kể, song yếu tố cần để ý trước tiên vẫn là môi trường sống. Môi trường sống của người Việt hải ngoại là xứ người; ngôn ngữ chính được sử dụng không phải là tiếng Việt mà là tiếng bản xứ, tức một ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Nhật, Tiệp, Nga, v.v. Thế hệ thứ nhất khó học ngoại ngữ vì lý do tuổi tác. Nhìn chung, trình độ ngoại ngữ của họ chỉ đủ để giao tiếp, xem TV, đọc báo. Đối với họ như vậy cũng đủ để tồn tại. Mức hòa nhập của người có tuổi yếu hơn so với người trẻ tuổi. Người có tuổi thích sinh hoạt với người đồng hương hơn là với người bản xứ; nói nôm na là gặp người Việt dễ hạp hơn nhờ đồng ngôn ngữ, đồng văn hóa, đồng cảm nghĩ, đồng cảnh ngộ,... Người quan sát dễ nhận thấy hiện tượng người có tuổi thích đi chùa, đi lễ vào Chủ nhật mặc dù không hẳn vì nhu cầu tôn giáo. Mục đích chính của nhiều người là muốn gặp gỡ người đồng hương để trò chuyện cho vui tinh thần. Gia đình đối với họ cũng là một không gian tương tự. Chỉ ở những nơi ấy, họ được nói tiếng Việt. Tiếng mẹ đẻ trong hoàn cảnh tha hương quả là một món ăn tinh thần cần thiết. Họ gìn giữ nó như thể nó là cái căn cước của mình. Một cách gián tiếp, nó còn là một nhịp cầu tình cảm nối với quê hương. Sống giữa lòng một cộng đồng ngoại ngữ, người có tuổi vẫn xem tiếng Việt là ngôn ngữ chính. Thế hệ thứ hai là thế hệ hòa nhập vì sự nghiệp. Đây là một thế hệ song ngữ đúng nghĩa. Họ cần hai ngôn ngữ cho hai thế giới: tiếng bản xứ cho thế giới người bản xứ, và tiếng Việt cho thế giới người Việt. Khác với thế hệ thứ nhất, thế hệ thứ hai là thế hệ mưu sinh tích cực và bằng ngoại ngữ. Từ lúc vào trường học cho đến lúc ra trường đời họ chỉ dùng ngoại ngữ để giao tiếp, học hỏi và làm việc. Rất nhiều người là những chuyên gia cao cấp có thẩm năng ngoại ngữ hoàn hảo không thua kém người bản xứ. Họ cố gắng hòa nhập để làm việc thật tốt, mong chóng thành đạt hầu đạt địa vị, đời sống sung túc. Sự cố gắng hòa nhập còn có nghĩa là muốn nắm được một cộng đồng mà họ sẽ được hưởng mọi thứ trong đó giống như mọi người khác. Đối với họ, đó là những nhu cầu thực tế cho cuộc sống nơi xứ người. Không chỉ sống với thế giới bản xứ, thế hệ thứ hai còn sống với thế giới người Việt mà họ vẫn coi mình là một thành viên của nó. Trong gia đình, nhất là gia đình còn cha mẹ, họ chỉ nói tiếng Việt với cha mẹ. Với người thân lớn tuổi, với bạn bè người Việt, họ cũng dùng tiếng Việt. Phần đông đều có thẩm năng ngoại ngữ khá tốt. Tuy vậy, cảm giác ngôn ngữ của họ đối với ngoại ngữ vẫn không cao bằng đối với tiếng mẹ đẻ. Hầu như tất cả người thuộc lớp tuổi khoảng 45 trở lên đều cảm thấy nói tiếng Việt thoải mái hơn nói tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp,... Thế nhưng, tiếng Việt mà họ sử dụng là tiếng Việt dùng để chuyện trò bình thường; số từ vựng không nhiều. Đụng một đề tài chuyên môn, văn chương hoặc có tính hàn lâm, rất nhiều người thiếu từ để diễn đạt. Họ thường chêm ngoại ngữ hoặc hỏi lại từ đó tiếng Anh gọi là gì. Vốn từ vựng tiếng Việt của thế hệ thứ hai có nguy cơ giảm sút theo thời gian vì quên, hoặc không gia tăng nếu không thường xuyên đọc sách báo tiếng Việt. Mức độ sinh hoạt tiếng Việt thường xuyên của mỗi người cũng khác nhau. Người sử dụng tiếng Việt nhiều nhất trong thế hệ thứ hai thường là người thuộc gia đình gia giáo, giới trí thức, văn nghệ sĩ, tu sĩ, giới truyền thông, người ở nơi người Việt tập trung đông đảo, và đặc biệt là người sống trong cộng đồng khép kín. Tiêu biểu cho cộng đồng khép kín là cộng đồng người Việt lao động hợp tác cũ ở châu Âu. Người Việt của cộng động này có khuynh hướng sống quanh quẩn trong tập thể của mình. Khả năng ngoại ngữ của họ có giới hạn. Họ được gửi sang Đông Âu lao động nhưng không được học tiếng bản xứ trừ những người thợ cả. Cấp trên của họ là người bản xứ. Khi muốn giao việc, người cấp trên chỉ cần nói chuyện với anh thợ cả bằng tiếng Đức, tiếng Tiệp, tiếng Ba Lan, rồi anh ta sẽ dịch lại cho người Việt của mình. Trong hoàn cảnh ấy, người lao động Việt Nam thực sự không quan tâm đến ngoại ngữ. Họ đến xứ lạ là để làm việc, sau vài năm hết hợp đồng rồi về nước, chứ không ai nghĩ sẽ sống lâu dài ở đó. Họ chấp nhận mình là kẻ thấp hèn, không biết tiếng nước ngoài, xa gia đình đi làm thuê, miễn sao kiếm được đồng tiền để trả nợ, để gửi về người thân bên Việt Nam, hoặc dành dụm cho tương lai để khi trở về, họ sẽ xây được một ngôi nhà cho gia đình, có chút vốn làm ăn, đủ tiền cho con cái ăn học. Đó là ước mơ của họ. Bất thình lình bức tường Bá Linh đổ xuống. Nhiều người được ở lại và xem đó như một cơ hội trời cho sẽ giúp mình dễ dàng làm ăn và sẽ trở nên giàu có. Đa số không được học nghề. Họ làm cật lực bằng đủ thứ việc không khác nhiều người Việt bên Mỹ làm mỗi ngày hai ba job. Từ ngày không còn anh thợ cả bên cạnh, họ phải tự trang bị cho mình một vốn liếng ngoại ngữ tối thiểu để giao tiếp. Ngoài giờ làm việc, họ vẫn nói tiếng Việt và quây quần trong cộng đồng người Việt giống như người Hoa ở Chợ Lớn vậy. Ít ai cảm thấy nơi mình định cư là quê hương thứ hai. Thế nhưng suy nghĩ ấy đã chạm phải điều mâu thuẫn. Một mặt người ta xem châu Âu là đất tạm dung, không cần hội nhập, mặt khác, không ai muốn trở về nước. Sự giằng co giữa "ở lại" và "trở về" kéo dài từ năm này qua năm khác trong khi con cái họ phải đến trường, cần hội nhập để tồn tại. Trên thực tế, rất nhiều người cũng không muốn con cái mình được giáo dục ở Việt Nam. Họ giải thích, dẫu sao học ở châu Âu vẫn thuận tiện hơn, không tốn tiền, có chất lượng hơn, có tương lai hơn. Rốt cuộc, một phần vì tương lai con cái, một phần vì phải kiếm tiền gửi về giúp gia đình bên Việt Nam, người "lao động hợp tác" nào cũng muốn ở lại, tiếp tục lao động, và tự nhiên trở thành những con người hy sinh cao quý. Nhiều người thường than thở, người thân của mình bên Việt Nam ở nhà lầu, có tiền gửi về tiêu thoải mái, có biết rằng, mình bên này ở nhà thuê, cầy bừa như trâu ngựa? Tóm lại, thế hệ thứ hai sử dụng hai ngôn ngữ chính: tiếng Việt và tiếng bản xứ. Thế hệ thứ ba được hiểu là thế hệ Việt Nam sinh đẻ ở hải ngoại, hoặc định cư ở hải ngoại lúc còn bé và lớn lên ở đó. Sự thành công nổi bật nhất của thế hệ này là việc học. Các em đã tạo được ấn tượng tốt ngay từ lúc mới bước chân vào vườn trẻ và tiếp tục ở tiểu học, trung học. Hầu hết các em đều dẫn đầu lớp hoặc có học lực giỏi. Giáo viên thường giải thích về hiện tượng này rằng, ngoài tính thông minh, chăm chỉ và nghị lực của trẻ em Việt, "cây roi" của cha mẹ cũng là một áp lực khiến các em trở thành học sinh giỏi. Người Việt có truyền thống lâu đời là muốn con cái ăn học thành tài và nhất là phải hơn người. "Con hơn cha, nhà có phúc" là câu tâm niệm muôn đời. Đứa con đứng đầu lớp đối với người cha, người mẹ là một niềm hãnh diện. Họ chấp nhận họ là hạng người ít học, làm nghề lau chùi toilet, làm culi,... nhưng con họ phải khá. Có cảnh cha mẹ chấp nhận mình là hạng dân lao động hợp tác, không có nghề nghiệp chuyên môn, phải đi bán chợ trời, nhưng không để con cái thất học. Có cảnh một người phụ nữ trẻ đi vượt biên, chồng bị hải tặc giết chết, mình bị hãm hiếp nhưng may mắn còn sống sót, bồng được đứa con sang Mỹ trong một hoàn cảnh đơn thân, tủi nhục, nhưng vẫn lo cho con mình ăn học đàng hoàng. Có nhiều trẻ xuất thân từ gia đình có cha đi học tập cải tạo, mẹ ở nhà phải bươn chải lo cho chồng ở trong tù, lo cho con được cắp sách tới trường. Nhờ sự cảm nhận về những kinh nghiệm bất hạnh của cha mẹ, đứa trẻ đã cương quyết vươn lên. Nói chung, nhờ những động lực khác thường, rất nhiều trẻ em Việt Nam đã trở thành những sinh viên xuất sắc và chuyên gia lỗi lạc sau này. Thế hệ thứ ba của cộng đồng người Việt hải ngoại thành công nhờ hòa nhập. Không những hòa nhập mà là còn hơn thế nữa. Người quan sát có lý do để tiên đoán một viễn ảnh: hòa nhập rồi hòa tan. Rất dễ nhận thấy những vấn đề sẽ xảy ra trong quá trình phát triển về ngôn ngữ của trẻ nhỏ Việt Nam ở hải ngoại tựa như hình ảnh sau đây: Lan sinh năm 1985, tại Stuttgart, Đức; bố mẹ là người Việt [8] . Lan biết nói từ lúc được một tuổi rưỡi. Đến năm ba tuổi, Lan đã nói chuyện với cha mẹ bằng tiếng Việt khá tự nhiên. Đến tuổi này, giống trẻ em khác, Lan đi vườn trẻ và bắt đầu tập nói tiếng Đức. Ban đầu, Lan bị khó khăn vì gặp ngôn ngữ lạ. Ở nhà Lan vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ và chưa có dấu hiệu gì thay đổi. Sau một tháng, Lan đã bập bõm nói được vài chữ tiếng Đức. Sau 1 – 1,5 năm, tiếng Đức của Lan khá lên còn tiếng Việt yếu dần. Lắm lúc thiếu từ tiếng Việt, Lan phải chêm một từ tiếng Đức vào. Mới đầu là từ, sau đó là câu cú. Khi cô bé đã nói được tiếng Đức khá chuẩn như bạn bè trong lớp, thì cha mẹ cứ phải thường xuyên sửa lại tiếng Việt của con mình cho đúng ngữ pháp tiếng Việt. Đây là một vấn đề song ngữ phổ biến nơi trẻ nhỏ Việt Nam ở hải ngoại. Đến năm sáu tuổi, Lan vào tiểu học. Hết tiểu học, Lan lên trung học. Suốt 13 năm đi học, Lan chỉ học toàn tiếng Đức. Ở nhà Lan vẫn nói tiếng Việt với cha mẹ. Mỗi cuối tuần cô bé còn được gửi đi học thêm tiếng Việt do người Việt tổ chức. Mặc dầu có cơ hội trau giồi tiếng Việt, nhưng đối với Lan, muốn diễn đạt một điều gì bằng tiếng Việt quả là khó hơn bằng tiếng Đức. Mọi cố gắng của cha mẹ Lan muốn con mình nói đúng tiếng Việt theo thời gian đã từ từ trở nên vô hiệu quả. Cứ vài năm, cha mẹ lại đưa Lan về Việt Nam du lịch, cốt tạo dịp cho con mình tiếp xúc với môi trường chỉ toàn người Việt để trau giồi tiếng mẹ đẻ. Sau mỗi lần như thế, tiếng Việt của Lan khá hẳn lên, nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì đâu lại vào đó. Người quan sát có thể nhìn thấy chi tiết hơn về mặt nói tiếng Việt của trẻ em Việt Nam ở hải ngoại như sau:
· Mắc lỗi ngữ pháp, ngữ nghĩa. Ví dụ nghe ai gọi điện thoại muốn nói chuyện với mẹ, thỉnh thoảng Lan trả lời là "Con mẹ không có nhà". Đúng ra phải nói là "mẹ con không có nhà". Lỗi ngữ pháp này xuất phát từ thói quen của trẻ Việt là nghĩ trong đầu bằng câu tiếng bản xứ trước, rồi sau đó mới dịch sang tiếng Việt. Câu tiếng Đức là "Meine (của con) Mutter (mẹ) ist nicht zu Hause (không có nhà)". Lan dịch "Meine Mutter" thành "con mẹ" theo nguyên tắc 1 đối 1, chỉ bỏ chữ "của" vì thấy người Việt cũng thường hay bỏ. Dĩ nhiên khi được sửa lại, Lan sẽ nói đúng. Song đôi lúc cô bé lại quên do đã bị ngữ pháp tiếng Đức chi phối quá nặng nề. Hoặc khi bố đi làm về, Lan mừng rỡ reo lên "Ba tới rồi". Đáng lý phải nói là "Ba về rồi". Cô bé mắc lỗi này vì đã dịch "Papa kommt" thành "Ba tới". Động từ "kommt" của tiếng Ðức (nguyên mẫu: kommen) không phân biệt "về" hay "tới", và Lan cũng không phân biệt.
· Nói lắp hoặc ngượng nghịu cũng thường xảy ra khi đứa bé cố gắng lập một câu tiếng Việt phức tạp. Nói lắp ở đây không phải là cố tật nói cà lăm bình thường mà do chưa nghĩ ra được từ kế tiếp, đứa bé phải dừng lại và lặp lại từ cũ. Nói ngượng nghịu là do dùng một từ không thích hợp hoặc tìm cách lập một câu theo ngữ pháp ngoại quốc để diễn tả một nội dung phức tạp khác hẳn nguyên tắc Đề-Thuyết
[9] và tịnh tiến đặc thù của tiếng Việt [10] . Đối với những câu ngắn thông dụng, đứa bé ít bị lỗi này.
Nói lớ. "Đây" nói thành "tây". "Rồi" nói thành "gồi", v.v.
Nói giọng nhẹ, có ngữ điệu. Tuy tiếng Việt không có ngữ điệu, đứa bé vẫn lên giọng xuống giọng như nói tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp.
Chêm từ ngoại quốc do thiếu vốn từ vựng tiếng Việt hoặc do thói quen.
Bên trên là một ví dụ về cô bé Lan sinh đẻ ở Đức. Nhìn chung, tiếng Việt của nhiều trẻ em định cư sớm cũng vậy; ở đâu cũng vậy. Môi trường sinh hoạt tiếng Việt thường xuyên và hữu hiệu nhất của trẻ em Việt Nam hải ngoại là gia đình. Nhiều em có ông bà sống chung trong nhà. Ông bà là những người thày dạy tiếng Việt giỏi nhất của các em. Ông bà thường hay kể chuyện, dạy các em ca dao tục ngữ và cắt nghĩa. Rất nhiều trẻ nhỏ Việt Nam thuộc lòng ca dao tục ngữ. Nó cũng giúp cho các em làm chủ một cách vô thức cách diễn ngôn theo nguyên tắc Đề-Thuyết của tiếng Việt. Gia đình còn ông bà là gia đình còn may mắn. Không những các em chỉ được nói chuyện với ông bà mà còn được dạy cả văn hóa. Tất cả đều gián tiếp tăng cường thẩm năng tiếng Việt của trẻ nhỏ. Bên cạnh ông bà, các em còn có thêm cha mẹ. Cha mẹ cũng là những người thày dạy con cái học tiếng Việt. Nhiều cha mẹ không cho phép con nói ngoại ngữ ở nhà. Nhiều cha mẹ dễ dãi hơn. Âu cũng vì hoàn cảnh khách quan. Người Việt hải ngoại lao động cực nhọc hơn người trong nước mường tượng. Phong cách làm việc Tây phương thỏa đúng nghĩa lao động: làm năm phút là năm phút, một tiếng là một tiếng. Sau giờ làm việc trở về, ai cũng mệt mỏi; khả năng kiểm soát, sinh hoạt với con cái giảm hẳn. Sự mệt mỏi dễ dẫn đến sự dễ dãi rồi buông xuôi trước việc con cái nói ngoại ngữ thay vì tiếng Việt. Thời gian trôi qua, tiền lệ tạo thói quen. Thói quen nói ngoại ngữ làm thẩm năng tiếng Việt của đứa bé yếu dần. Ngoài ông bà, cha mẹ, nhiều em còn có người thân và được dịp nói tiếng Việt. Bên cạnh đó còn có trường dạy tiếng Việt. Ở hải ngoại, ít có nơi tiếng Việt đưa vào chương trình học phổ thông. Hầu hết các nơi dạy tiếng Việt đều do các cơ sở tôn giáo, hội đoàn người Viêt tự nguyện đứng ra tổ chức. Tiền học phí không đáng kể. Giáo viên nghiệp dư, làm việc vì tấm lòng, gồm phụ huynh, tu sĩ, người tự nguyện. Có chương trình dựa vào giáo trình tiếng Việt cũ của miền Nam trước 75. Có chương trình mới soạn lại sau này, không tân tiến lắm nhưng có sách vở để dạy. Ở hải ngoại không có một lực lượng ngôn ngữ học hùng hậu như ở Việt Nam. Người làm về ngôn ngữ học đếm trên đầu ngón tay, thậm chí của bàn tay trái. Người nào biết gì sẽ tự nguyện cố vấn, giúp đỡ người khác soạn giáo trình. Cộng đồng tiếng Việt hải ngoại phải tự liệu từ A tới Z. Sứ quán Việt Nam không tổ chức lớp dạy tiếng Việt và cũng không giúp họ soạn giáo trình. Họ cũng không cần, hơn nữa còn dị ứng với những tài liệu giáo khoa có chêm thêm chính trị, mang tính tuyên truyền. Nhìn chung, phương tiện và nhân lực dạy tiếng Việt không thiếu, nhất là ở các nơi người Việt sống đông đúc. Mặc dù người Việt hải ngoại rất cố gắng, song chỉ mong sao thế hệ trẻ đừng quên hẳn tiếng Việt chứ không thể mong chúng đạt được trình độ hoàn hảo. Cả giải pháp mở lớp dạy tiếng Việt cũng không đạt được mục đích ấy. Những quan sát trên mới chỉ cho thấy một vài đặc điểm về mặt nói tiếng Việt của thế hệ thứ ba Việt Nam hải ngoại. Về mặt đọc và viết, tình trạng còn tồi tệ hơn nhiều. Hầu hết trẻ em Việt hải ngoại nói không rành tiếng Việt đều không đọc được và viết được tiếng Việt ngoại trừ có đi học thêm. Tuy vậy, kỹ năng đọc và viết tiếng Việt của các em vẫn rất yếu. Nói theo nhà ngôn ngữ học Halliday "Ngôn ngữ là một hoạt động căn bản bao gồm bốn thứ: nói, nghe, viết và đọc"
[11] thì có lẽ phải xếp thẩm năng tiếng Việt của trẻ em Việt hải ngoại theo thứ tự: nghe giỏi nhất, rồi đến nói; đọc và viết là hai thứ yếu nhất. So sánh cộng đồng tiếng Việt với các cộng đồng ngoại ngữ khác Trẻ em Việt Nam hải ngoại không giỏi tiếng mẹ đẻ như trẻ em trong nước là điều hiểu được. Thế nhưng so với trẻ em ngoại quốc khác cũng là di dân, thẩm năng tiếng mẹ đẻ của trẻ em Việt hải ngoại vẫn yếu hơn. Có lẽ cần tìm hiểu nguyên nhân trên một bình diện rộng. Hãy thử quan sát một vài cộng đồng ngôn ngữ ở châu Âu, cụ thể, chọn Đức và Pháp, nơi di dân ngoại quốc tập trung đông nhất. Ở Đức, cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ coi như lớn nhất, kế đến là cộng đồng Âu Tây, rồi đến cộng đồng nói tiếng Ả Rập, Đông Âu, Balkan [12] . Ở Pháp, cộng đồng Âu Tây và cộng đồng nói tiếng Ả Rập lớn nhất [13] . Hai cộng đồng nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Ả Rập đại diện cho cộng đồng Hồi giáo ở châu Âu. Cộng đồng Hồi giáo: Các dân tộc theo đạo Hồi xa xứ có truyền thống sống gắn bó với nhau. Bị dân bản xứ Tây phương cho là cực đoan tôn giáo, bị kỳ thị, họ cùng đứng về một phe, tự che chở và đồng thời tự cô lập mình trong thế giới ăn nhờ ở đậu bằng một bức tường kiên cố "tôi" là "tôi", "anh" là "anh", điển hình là cộng đồng ôn hòa Thổ Nhĩ Kỳ ở Đức. Mặt khác họ có thể đối lại mọi ác cảm bằng bạo lực, tiêu biểu là cộng đồng Ả Rập ở Pháp, gồm nhiều dân tộc cựu thuộc địa Bắc Phi như Algeria, Morocco, Tunisia,... Họ chống đối ra mặt người Pháp để bênh vực phe mình. Chỉ cần một người Ả Rập bị ám hại, họ sẽ ùa ra đường đốt xe, đập phá cửa tiệm, hoặc chống đối dữ dội sự cấm đoán phái nữ Hồi giáo đội khăn nơi trường học. Dù có mâu thuẫn, dân Hồi giáo cũng phải tiếp xúc với thế giới bên ngoài để mưu sinh. Họ lao động bằng đủ mọi nghề thường bị dân bản xứ chê là thấp hèn. Họ chấp nhận làm tất cả, miễn kiếm được nhiều tiền để gửi về giúp thân nhân ở quê hương cũng như xây nhà cửa ở đó. Đối với họ, được vậy là đạt mục đích; còn những thứ không hạp ở xã hội tạm dung, họ có quyền chối từ. Cộng đồng Hồi giáo rất khó đồng hóa. Họ chú tâm bảo toàn cái riêng tư, trong đó có ngôn ngữ. Trẻ em Hồi giáo giỏi tiếng mẹ đẻ nhờ một cộng đồng Hồi giáo to lớn, sống tập trung, gắn bó và có truyền thống. Các em còn phải học kinh Koran để đọc kinh, thờ phụng đấng Allah hàng ngày. Phong tục ấy cho các em thêm cơ hội thực hành tiếng mẹ đẻ. Ở nhiều nơi tại Đức, tiếng Thổ Nhĩ Kỹ cũng được đưa vào chương trình học phổ thông. Cộng đồng Âu Tây: Giống các dân tộc theo đạo Hồi, dân ngoại quốc Âu Tây như Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp,..., nói chung là dân nghèo của các nước cận Địa Trung Hải, cũng tới Đức sinh sống vì lý do kinh tế. Trẻ em các dân tộc này rất giỏi tiếng mẹ đẻ. Dân tộc nào cũng có một niềm tự hào về văn hóa, lịch sử của mình. Trẻ em Ý tự hào về nền văn minh La Mã; trẻ em Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha tự hào về lịch sử cường quốc thuộc địa; trẻ em Hy Lạp tự hào về nền văn minh Hy Lạp cổ. Trẻ em Hy Lạp cũng được học tiếng Hy Lạp trong nhà trường. Cộng đồng Đông Âu: Ở Đức còn có cộng đồng dân ngoại quốc Đông Âu như Tiệp Khắc cũ, Ba Lan, Nga, Hung, Lỗ Ma Ni, Nam Tư cũ. Họ đến Đức cũng vì lý do kinh tế. Con em của họ rất giỏi tiếng mẹ đẻ. Dân Ðông Âu thường sống cô lập và không xem chốn mưu sinh là quê hương thứ hai của mình. Những cộng đồng kể trên còn có một lợi điểm lớn là sống gần quê hương. Vào mỗi dịp hè, nhiều người thường về thăm nhà cũng gần đó, đường sá thuận tiện, con cái được dịp nói tiếng mẹ đẻ. Nhờ gần, họ dễ gắn bó với quê hương. Cộng đồng Hồi giáo vẫn còn giữ truyền thống đại gia đình, một yếu tố quan trọng giúp bảo tồn tình gia tộc. Cộng đồng thiểu số: Cộng đồng thiểu số tại Pháp và Đức bao gồm nhiều nguồn gốc: Phi châu, Nam/Trung Mỹ, Á châu. Nhóm này sống rải rác. Nhiều dân Phi châu xem tiếng Pháp là tiếng mẹ đẻ. Trẻ em Nam/Trung Mỹ sử dụng tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha cũng nhuần nhuyễn. Ngoài hai cộng đồng này, trẻ em các cộng đồng còn lại ít giỏi tiếng mẹ đẻ hơn [14] . Cộng đồng Việt Nam nói riêng: Người Việt có mặt hầu như ở mọi quốc gia Âu châu. Khác với người Việt ở Mỹ, Canada, Úc, người Việt ở châu Âu sống rải rác khắp nơi. Pháp và Đức là nơi có nhiều người Việt nhất nhưng họ vẫn không có những điểm tập trung đông đảo đáng kể như người Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập. Có lẽ đây cũng là một chính sách của chính phủ bản xứ không cho dân ngoại quốc sống tập trung, đặc biệt là ở Đức. Cái thất lợi lớn đầu tiên mà di dân thiểu số phải chấp nhận là khoảng cách địa lý. Người Việt thuộc nhóm này. Người thì ở trên núi, người thì ở miền xuôi, người thì ở thành thị, người thì ở thôn quê, muôn vàn cách trở. Cái cộng đồng tiếng nói bị băm ra thành từng mảnh. Người Việt thiếu người Việt để giao tiếp, tiếng Việt kể như không còn đất dụng võ ngoài cái không gian bé nhỏ của gia đình. Nếu chỉ ngắm nơi người Việt tụ tập như ở thành phố, bức tranh trông đỡ buồn thảm hơn, song chưa hẳn là đã đẹp. Ở thành phố, người Việt sống đông hơn ở vùng quê, nhưng có mấy dịp gặp nhau? Thỉnh thoảng đi chợ Á châu, thỉnh thoảng đi chùa, đi nhà thờ, thỉnh thoảng đi ăn sinh nhật bạn bè, đi đám ma, đám cưới; một năm mới có Tết một lần; cơ hội gặp gỡ người đồng hương của người Việt so với các cộng đồng lớn khác vẫn ít hơn nhiều. Nhìn riêng vào góc trẻ con, người quan sát dễ bắt gặp hình ảnh lũ trẻ nói tiếng Việt với cha mẹ nhưng lại nói ngoại ngữ với nhau, kể cả với anh chị em trong nhà. Khi nghe cha mẹ nhắc phải nói tiếng Việt, chúng lập tức đổi sang tiếng Việt; nói được dăm ba câu, chúng lại xoay sang trò chuyện tiếp bằng tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp. Trẻ con Việt thích dùng ngoại ngữ cũng phải, bởi vì dễ diễn đạt. Nói tiếng Việt khó quá, vừa thiếu chữ, vừa thiếu cảm giác ngôn ngữ. Trong gia đình, người cha người mẹ nói tiếng Việt với nhau, hoặc với các con, lũ trẻ có thể hiểu, nhưng đó là thứ ngôn ngữ giữa người lớn và người lớn hoặc giữa người lớn và trẻ nhỏ, còn thứ ngôn ngữ giữa trẻ nhỏ và trẻ nhỏ, cái mà các em cần, thì thiếu vắng. Một đứa bé Việt Nam hải ngoại đến tuổi vào vườn trẻ có nghĩa là bắt đầu bước vào thế giới nhi đồng bản xứ chứ không phải thế giới nhi đồng Việt Nam. Ở đó, nó sẽ sống với bạn bè và phát triển với mọi thứ tình cảm, tư duy mà nó phải dùng ngoại ngữ để diễn đạt. Khi vui biết nói làm sao cho giống bạn bè. Khi buồn cũng thế, khi giận dữ cũng thế. Giả sử có một vườn trẻ Việt Nam, có cô giáo Việt hướng dẫn, các em sẽ được học cách diễn tả theo kiểu tiếng Việt, nhưng không, các em chỉ học được cách diễn tả bằng tiếng bản xứ. Trẻ con Việt hải ngoại lớn dần với cách hành ngôn ngoại ngữ. Chúng nói tiếng Việt bằng cách nghĩ ra câu ngoại ngữ trước trong đầu rồi dịch sang tiếng Việt theo ngữ pháp câu ngoại ngữ. Ban đầu cha mẹ còn kiên nhẫn giúp con sửa lại câu nói theo cách hành ngôn của người Việt, nhưng đến ngày nào đó, mệt mỏi quá, đành buông xuôi để con mình nói ngoại ngữ. Theo thời gian, đứa trẻ càng biết nhiều, lập câu cú càng phức tạp, cha mẹ càng bó tay. Có người muốn cho con mình dễ hiểu, bèn nói chuyện với nó luôn bằng ngoại ngữ. Dĩ nhiên so với trẻ em ngoại quốc của một cộng đồng to lớn, sống tập trung, có truyền thống, trẻ em Việt không giỏi tiếng mẹ đẻ bằng, nhưng so với trẻ em thuộc các cộng đồng nhỏ như Peru, Mexico, Palestine, ..., trẻ em Việt vẫn thua kém về tiếng mẹ đẻ. Tự hào về một ngôn ngữ mạnh là một điểm quyết định. Tiếng Ả Rập, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là các ngôn ngữ mạnh gắn liền với những nền văn minh, lịch sử đáng kể của thế giới và được nhiều người sử dụng. Thế nhưng tại sao trẻ em người Hoa hải ngoại vẫn có thể yếu tiếng mẹ đẻ mặc dầu tiếng Hoa cũng là một ngôn ngữ mạnh thỏa những điểm ấy? Thực chất của vấn đề là mặc cảm thua kém hiện tại. Thử quan sát, tiếng Thụy Điển, Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch không phải là những ngôn ngữ mạnh; các xứ Bắc Âu này cũng không có một hào quang lịch sử hoặc một nền văn minh rạng rỡ, nhưng hiện tại mọi người đều biết đây là các xứ tiên tiến giàu tính xã hội và hạnh phúc bậc nhất thế giới. Nhờ tiếng tốt ấy mà trẻ em Bắc Âu hải ngoại không bị mặc cảm thua kém, vẫn giỏi tiếng mẹ đẻ. Rất nhiều người Việt ở hải ngoại mắc bệnh mặc cảm thua kém. Nhiều người ra đường, khi được hỏi "Bạn từ đâu đến?", họ hay trả lời là "Nhật". Người Việt cũng có một lịch sử bốn ngàn năm văn hiến huy hoàng, rất đáng tự hào, tại sao phải mặc cảm? Người Việt còn có khả năng đánh thắng giặc Tàu, giặc Tây, thậm chí nhiều người còn tự hào thắng cả Mỹ, nhưng tại sao ra đường không dám nhận mình là người Việt? Người Việt cũng tự hào đánh thắng cả Nhật, nhưng tại sao ra đường không dám nhận mình là người Việt anh hùng mà là anh chàng Nhật bại trận đầy mặc cảm kia? Phải chăng niềm tự hào vẫn chưa đủ mạnh để chiến thắng sự yếu kém hiện tại của mình? Người Việt mắc bệnh mặc cảm thua kém thường sống quanh quẩn trong cộng đồng của mình, ít tiếp xúc với người bản xứ. Họ kém ngoại ngữ một phần cũng vì lẽ ấy. Song cũng nhờ vậy mà con cái họ lại giỏi tiếng Việt, vì chúng phải nói tiếng Việt để cha mẹ dễ hiểu. Ngoài châu Âu, có nhiều nơi người Việt sống tập trung thành một cộng đồng nhộn nhịp như ở Toronto, Quebec, Sydney, Texas, Little Saigon,... Ví dụ, đặt chân đến Little Saigon, người Việt có thể nói tiếng Việt thay cho tiếng Anh; môi trường sống ấy không khác nơi tập trung của dân Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập ở châu Âu. Người Việt ở các vùng đó có sự nghiệp, con cái được ăn học đàng hoàng, chẳng thua kém ai để phải mặc cảm, nhưng tại sao trẻ em vẫn yếu tiếng Việt? Người Việt đến xứ người với hai bàn tay trắng, từ đâu họ có nhiều nghị lực để vươn lên và biến thành một cộng đồng di dân ngoại quốc thành đạt? Họ thành công nhiều mặt, chỉ có tiếng mẹ đẻ của thế hệ thứ ba là điều đáng băn khoăn. Đánh mất tiếng mẹ đẻ gần như đồng nghĩa với đánh mất cội nguồn. Hãy nhìn xem, nơi thế hệ trẻ Việt hải ngoại hầu như không tồn tại tình cảm quê hương. Nhiều em được cha mẹ đưa về Việt Nam thăm nhà, song tình cảm của chúng đối với quê quán khá hời hợt. Thực tế đã chỉ ra, về Việt Nam một lần, rất nhiều thanh thiếu niên không thích về nữa. Chúng viện đủ lý do: Việt Nam không phải là chỗ nghỉ hè hấp dẫn, môi trường ô nhiễm, thiếu vệ sinh, giao thông hỗn độn, công an phi trường ăn hối lộ, không văn minh như ở Mỹ, Canada, Úc, v.v. Thêm vào đó, cha mẹ thường kể cho con cái nghe về mọi thứ tiêu cực của đảng viên: tham nhũng, ăn chơi trụy lạc, sai lầm, dốt nát. Cái chế độ đã làm cả xã hội tụt dốc vì đủ thứ bệnh: đạo đức suy đồi, giả dối, vô trật tự, tính toán, hướng vật chất, v.v. Giới trẻ Việt Nam ở hải ngoại vốn đã không cảm thấy Việt Nam là quê hương của mình, nay nhìn thấy thêm những tiêu cực ở đó, nhiễm thêm những thành kiến về nó, thì càng lại không. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng là một yếu tố tinh thần quan trọng. Đại gia đình là một nét văn hóa đẹp của người Việt, nhưng ở hải ngoại, nó cũng dần dần biến mất theo mũi tên vật chất. Hình ảnh gia đình có ông bà cha mẹ chung sống bây giờ hiếm thấy. Con cái lớn, biết tự lập thường thích sống riêng, lâu lâu mới về thăm nhà. Tình cảm gắn bó với gia đình giảm đáng kể. Hiện tượng này ít thấy ở cộng đồng Hồi giáo. Ngày xưa ở cạnh ông bà cha mẹ, hàng ngày nói tiếng Việt, giờ ra riêng, cơ hội ấy cũng không còn. Tinh thần dân tộc và ý thức hệ Tinh thần dân tộc của thế hệ cha anh Việt Nam hải ngoại có ảnh hưởng lớn đến vấn đề ngôn ngữ của thế hệ trẻ. Đại đa số người lớn đều xem nơi mình định cư là chốn an cư lạc nghiệp, là quê hương thứ hai. Có người còn bi quan hơn nữa, xem "chốn này là quê hương thứ nhất, quê hương của hiện tại; còn Việt Nam là quê hương thứ hai, quê hương của quá khứ". Sự tự an ủi ấy cũng thường được biểu lộ qua sự tự biện, đại để rằng "Dẫu sao mình cũng đã sống ở đây; con cái mình cũng ở đây, sẽ sống ở đây, phải nói tiếng Mỹ thì mới sống bình thường như mọi người. Tiếng Việt chỉ là tiếng phụ". Ý nghĩ bi quan thường xuất phát từ thất vọng. Nói ngược lại, còn hy vọng, con người không dễ bi quan. Nhìn vào cộng đồng Palestine ở châu Âu, người quan sát hẳn thấy mọi người già trẻ đều ấp ủ niềm hy vọng phục quốc, xây dựng một đất nước Palestine giàu đẹp; cha mẹ ra sức giáo dục con em giữ gìn văn hóa, tiếng nói của mình, động viên, cầu nguyện đấng Allah cho con em mình đạt được lý tưởng. Sự thất vọng cũng không xảy ra với dân Do Thái, một dân tộc ngàn năm lang thang tưởng chừng đã hóa thành tro bụi trong lò thiêu của Đức Quốc xã. Họ thừa biết thân phận lưu vong khốn cùng của mình và biết đoàn kết biến miền đất hứa thành quốc gia Israel vững mạnh ngày nay. Có phải nhờ có ý thức về nguồn cội mà người Palestine lẫn người Do Thái đã hướng tâm hồn về đó và ao ước xây được một ngôi nhà đẹp đẽ cho dân tộc mình? Nhật Bản và Đại Hàn cũng từng có thời mang đầy mặc cảm thua sút dân da trắng, đã gửi sinh viên đi khắp phương Tây du học. Sinh viên họ cắn răng chịu đựng mọi tủi nhục, quyết tâm học, học và học vì đất nước. Nhiều sinh viên Nhật đã chịu để mổ bụng, cất giấu tài liệu khoa học kỹ thuật mang về nước. Họ chấp nhận cái chết, nhưng những tài liệu ấy sẽ đưa nước Nhật đi lên. Nhiều sinh viên Đại Hàn học yếu đã từng tới hỏi bài sinh viên Việt Nam; họ chấp nhận sự thua kém miễn có cơ hội học hỏi, đem tri thức về giúp nước. Trong khi đó nhiều học sinh Việt Nam sau này được gửi ra ngước ngoài du học nhưng không chịu học hành, cứ để dư luận mãi chê trách là con ông cháu cha chỉ biết ăn chơi, hưởng thụ, nhưng về nước thì được ngồi trên ghế lãnh đạo, trị dân trị quốc. Đại đa số người Việt hải ngoại không có một niềm hy vọng phục quốc như dân Palestine hải ngoại hoặc một nỗi đam mê xây dựng đất nước như người Do Thái, Nhật Bản, Đại Hàn. Còn bên kia, trong nước, phải chăng những người để mắt đến cộng đồng người Việt hải ngoại thường lo ngại, mất "Việt kiều" là mất một nguồn lợi kinh tế và tri thức quý giá thay vì lo ngại cái "bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam" sẽ đánh mất trái tim dân tộc vốn chỉ tồn tại nhờ tiếng Việt? Cụm từ "bộ phận không tách rời" đã tự thú có một sự tách rời đang tồn tại trong lòng dân tộc. Nói đúng hơn, cái biên cương ngăn cách dân tộc đã tồn tại trong suốt mấy chục năm qua mà thủ phạm chính là cái ý thức hệ của thế hệ cha anh Việt Nam trong cũng như ngoài nước. Chính nó đã dẫn đến hệ quả thế hệ con em Việt Nam hải ngoại đánh mất tiếng Việt! Phi lý thay, cái ý thức hệ vẫn mãi lẩn quẩn trong cái vòng "Cộng sản - Không cộng sản" đã cũ kỹ và vô dụng quá chừng. Chiến tranh đã chấm dứt hơn ba mươi năm mà con người vẫn muốn giậm chân tại chỗ, đầu óc vẫn bảo thủ, tâm hồn vẫn cố chấp, ngược hẳn truyền thống bao dung, nhường nhịn của dân Việt mà mình luôn lớn tiếng tự hào là người sở hữu. Một bên, ở hải ngoại, nhiều cha mẹ vẫn di truyền cho con cái những thành kiến về người cộng sản, vẫn cho người mình là thua trong chiến tranh nhưng thắng trong hòa bình; một bên, ở trong nước, nhiều người vẫn cho rằng mình là người chủ yếu có công với đất nước, người chiến thắng duy nhất. Rốt cuộc, người Việt trong chiến tranh Việt Nam, ai cũng thắng, chỉ có dân tộc Việt là thua. Cảnh gà tranh nhau tiếng gáy vẫn chưa dừng. Thực ra sự dị biệt chính kiến không phải là đặc điểm chung của toàn thể hơn 80 triệu dân Việt Nam mà là của một khối người gồm người cộng sản và người có kinh nghiệm xấu với người cộng sản. Và thực ra, trong số hơn hai triệu đảng viên cộng sản, chỉ có vài ngàn người thuộc tầng lớp lãnh đạo. Cái con số vài ngàn kia tuy cực kỳ nhỏ nhưng nó đã quyết định vận mạng dân tộc sau 75. Nó đã gây nên nhiều vấn đề và sự bất mãn của người dân. Lãnh đạo giỏi, dân tộc sẽ đi lên, nhưng dân tộc đã đi xuống. Lịch sử đã từng chứng minh điều đó. Tình trạng "ngăn sông cấm chợ" kinh tế là một sai lầm điển hình của người lãnh đạo một thời đã khiến toàn dân lâm vào cảnh đói. May nhờ bản năng, người dân đã "phá rào" và thoát nạn. Nhờ cái sự ngược đời "bản năng chiến thắng lý trí" ấy mà người duy lý sai lầm cũng thoát nạn. Ngày hôm nay, rất nhiều người lãnh đạo có đời sống sung túc hơn người, có nhà lầu, villa ở, có người giúp việc, có xe hơi chạy, ăn sang mặc đẹp, có tiền cho con đi du học mà không cần làm ăn buôn bán. Giả sử bây giờ có ai đùa với họ, kêu họ trở lại thời bao cấp ăn bo bo, chắc sẽ bị họ cho là bất bình thường. Vậy mà lịch sử Việt Nam đã một lần ghi nhớ một sự bất bình thường: hạnh phúc của người dân, ít nhất là được chén cơm manh áo, không phải nhờ tài năng của người lãnh đạo đem lại mà là nhờ bản năng xoay sở của người dân. Chỉ cần người lãnh đạo đừng cấm, người dân sẽ tự lo được và đất nước sẽ đi lên. Vậy thì làm lãnh đạo để làm gì? Nhu cầu của người dân ngày càng tăng. Hôm nay ăn no mặc ấm, ngày mai ăn ngon mặc đẹp là quy luật phát triển tự nhiên. Người lãnh đạo cũng muốn bản thân mình và gia đình mình được vậy. Vật chất chưa đủ, con người cần cả tinh thần, âu cũng là lẽ tự nhiên và là quyền của mỗi con người sống trên quả đất này chứ chẳng phải dân tộc khác thì được, còn dân tộc Việt Nam thì không. Nếu bị "ngăn sông cấm chợ" tư tưởng, người dân lại phá rào thêm lần nữa. Cuối cùng, người lãnh đạo lại phải chìu ý dân. Giống lần "đổi mới" trước, lần này họ cũng được hưởng theo, được sống vui tinh thần hơn, hết vướng bận hận thù. Đó là xu hướng phát triển tất yếu của xã hội Việt Nam, chỉ có điều là kết quả đến sớm hay muộn mà thôi. Đã biết vậy, chi bằng làm sớm được chừng nào hay chừng nấy cho người dân hạnh phúc, người lãnh đạo cũng hạnh phúc theo. Xét cho cùng, nguyên nhân người Việt ghét nhau là ý thức hệ, còn nguyên nhân của ý thức hệ là "cộng sản". Không những người Việt hải ngoại mà phần lớn người trong nước, đặc biệt là người miền Nam không ưa thích nó. Người lãnh đạo thừa biết, ngày nay, tất cả những ai muốn được tự do làm ăn buôn bán để được một cuộc sống sung túc đều không ủng hộ chủ thuyết vô sản, kể cả người mang tiếng là đảng viên cộng sản. Lý do rất đơn giản là nó không còn hợp thời. Có thể tôn trọng ý kiến cho rằng nhờ "cộng sản", đất nước mới độc lập, song đó là quá khứ, còn hiện tại là thời đại mới, toàn dân tộc đang cần vươn nhanh để thoát khỏi tình trạng tụt hậu bi đát triền miên. Phải chi bài bản cộng sản giúp con người làm được việc đó thì ai cũng giơ tay ủng hộ, đàng này không, thậm chí nó còn kéo con người lùi trở lại. Vì thế mới có tư duy "đổi mới". Sự quyết định hợp lòng dân ấy đã trực tiếp nhìn nhận tính phi thực tế của ý tưởng cộng sản cao xa. Hợp lòng dân thì việc gì cũng xong. Dân trong nước cũng như ngoài nước. Riêng người Việt hải ngoại, dù sống xa xứ, họ vẫn không thiếu tinh thần yêu nước. Hầu hết mọi người thuộc thế hệ thứ nhất, thứ hai đều hướng về quê hương và bao giờ cũng mong cho đất nước khá lên. Chỉ tại vì cái ấn tượng cộng sản vẫn còn ngự trị ở đó làm họ chán chường. Người ta đã quá sợ nó. Nghĩ đến nó là người ta lại liên tưởng đến đói nghèo, lạc hậu, dốt nát, kiêu căng, độc tài, lạm quyền, hà hiếp nhân dân, tham nhũng, giả dối, đạo đức suy đồi, v.v. Toàn những điều tiêu cực. Ở hải ngoại, lòng yêu nước có được bơm vào thế hệ thứ ba hay không còn tùy thuộc vào hai thế hệ cha anh. Hai thế hệ ấy mà ra đi với thất vọng, thì kể như niềm hy vọng thế hệ trẻ Việt Nam hải ngoại có lòng yêu nước cũng tan thành mây khói. Tiếc thay, cái ý thức hệ vẫn còn tồn tại nhờ một thiểu số có khả năng duy trì nó vì tự ái lập trường và quyền lợi cá nhân, mà thực chất, quan trọng nhất, là quyền lợi cá nhân. Không có lý gì vì một thiểu số ấy mà để toàn dân tộc hơn 80 triệu người đang cần đưa đất nước đi lên phải chịu hy sinh. Phải biến Việt Nam thành một chủ đề mới, mới hoàn toàn: một nhu cầu hưng quốc như Nhật Bản, Đại Hàn, Palestine, Do Thái và phi ý thức hệ. Cần dẹp bỏ hết chướng ngại vật để mọi người phấn khởi xắn tay làm việc. Phải biến Việt Nam thành một quốc gia thịnh vượng và giàu tính xã hội. Xã hội nhưng không nhất thiết phải cần đến lý thuyết xã hội chủ nghĩa của người da trắng. Người Việt không dám tự hào mình giàu có, giỏi kỹ thuật hơn người, nhưng về tính xã hội thì đáng tự hào hơn ai hết: xã hội một cách tự nhiên và có văn hóa. Ai cũng biết, phương Tây thừa vật chất nhưng ngày càng thiếu tinh thần. Trong khi họ muốn lấy lại thế quân bình bằng cách học hỏi tinh thần phương Đông và dùng sở trường khoa học của mình biến nó thành của riêng, thì nhiều người phương Đông lại coi thường những gì mình có. Người Việt, thế hệ nào cũng vậy, đã hấp thụ đầy đủ sự giáo dục hướng thiện của cha ông, hà cớ gì phải đi học của người ta? Một ví dụ, nếu thử đem ca dao tục ngữ Việt Nam ra mà so sánh với lý thuyết cộng sản, bảo đảm cái bộ kinh điển Mác Lê dầy cộm kia không bằng. Ca dao tục ngữ Việt Nam không dạy con người phân biệt, giành giật, hận thù, chém giết lẫn nhau. Nó dạy con người "ở hiền gặp lành", "lá lành đùm lá rách", chia sẻ với nhau mà sống, chứ không phải "Veni Vidi Vici" ("tới, thấy và chiến thắng") theo kiểu Tây phương. Nó dạy con người sống tử tế với nhau, "thương người như thể thương thân", chứ không phải dùng cùi chỏ mà sống như dân chúng Đức thường trách xã hội mình là một thứ "xã hội cùi chỏ" ("Ellenbogengesellschaft"). Một đứa bé Việt mới chào đời đã được học cái chất hiền hòa qua lời ru của người mẹ. Lớn lên thành cha mẹ, nó đã nhớ lời răn "đời cha ăn mặn, đời con khát nước", phải sống thiện để còn để phúc lại cho con cháu. Mỗi người dân Việt Nam bình thường, từ một đứa trẻ ngây thơ cho đến một cụ già không biết chữ, có thể không hiểu một chút gì về lý thuyết cộng sản cao siêu nhân đạo của người da trắng như những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam, nhưng thuộc lòng và hiểu ca dao tục ngữ của mình muốn nói gì. Cái triết sống hòa bình, nhân bản của ca dao tục ngữ Việt Nam đã ngấm vào máu từng người theo cuộc đời. Nhờ thích hợp với mọi người, nó mới có thể sống từ ngàn năm này sang ngàn năm khác cho tới tận bây giờ, chứ không phải như cái triết cộng sản của phương Tây sau vài trăm năm đã chết. Người cộng sản Việt Nam cũng có thể tìm thấy ngay trong chính "tư tưởng Hồ Chí Minh" nhiều ý tưởng rút ra từ ca dao tục ngữ. Nói ngắn gọn, ca dao tục ngữ Việt Nam dạy người Việt thương nhau, còn lý thuyết cộng sản làm người Việt ghét nhau. Cho nên người Việt không có gì mà phải cảm thấy mình yếu kém để mà thiếu tự tin. Hãy quay về với tinh hoa, truyền thống xã hội lâu đời của mình. Làm được việc ấy cộng với một tiềm lực lớn chưa bao giờ có của toàn dân trong và ngoài nước, và những cơ hội thuận tiện cho sự hội nhập với thế giới (như APEC, WTO,...), Việt Nam có thể trở thành một Nhật Bản hay một Đại Hàn hùng mạnh thứ hai của Á châu và còn hơn thế nữa: nhân bản thuần túy người. Được vậy, vấn đề mai một tiếng Việt ở hải ngoại tự động sẽ biến mất. Một khi trẻ em Việt hải ngoại không còn lý do để mặc cảm về nguyên quán, tự động chúng sẽ giỏi tiếng mẹ đẻ như trẻ em Bắc Âu. Nhưng, đó chỉ là một ước vọng xa vời. Thực tiễn không kiên nhẫn đợi chờ ai. Thế hệ Việt thứ tư ở hải ngoại đã xuất hiện. Một đôi vợ chồng trẻ gốc Việt, thế hệ thứ ba, nói tiếng Đức hoàn toàn. Họ có đứa con đầu lòng vừa biết nói. Họ chỉ nói tiếng Đức với con mình. Vài năm nữa, khi thế hệ thứ ba đến tuổi lập gia đình, hình ảnh này sẽ tràn lan khắp cộng đồng người Việt hải ngoại. Và hai ba mươi năm nữa, khi thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai đã lần lượt ra đi, thì tiếng Việt cũng biến mất, cộng đồng tiếng Việt hải ngoại biến mất, "khúc ruột ngàn dặm" biến mất, chỉ còn lại Nghị quyết 36 và vết sẹo của lương tâm. Stuttgart, 11.2006 Nguồn: talawas
[1]Nghị quyết 36 của bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.mofa.gov.vn/vi/vd_quantam/ns041215094700] [2]xem [1].[3]xem https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.km.bayern.de/blz/web/old_100111/feske.htm[4]Theo VietNamNet: Tiềm năng của doanh nhân VN ở nước ngoài rất lớn, nhưng việc thu hút nguồn lực này đầu tư về nước lại chưa đạt hiệu quả cao. https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/vietnamnet.vn/kinhte/2006/09/614489/[5]Theo Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Ngọc Phúc, xem [4][6]Theo tin đài VOA:. https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.voanews.com/vietnamese/archive/2004-01/a-2004-01-02-9-1.cfm[7]Bộ Ngoại giao Việt Nam: https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr040807105001/ns050812135039 Xem thêm: https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.vnpost.mpt.gov.vn/bao_2005/so36/chuyende/t8b1.htm[8]Dữ liệu đã được thay đổi.[9]Xem giải thích ở Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong tiếng Việt của Cao Xuân Hạo et al., nxb Giáo Dục, 2000.[10]Xem giải thích chi tiết ở Tiếng Việt và Ngôn ngữ học hiện đại - Sơ thảo về cú pháp, cùng tác giả. Tủ sách talawas: showFile.php?res=3244&rb=0202 [11]Halliday M.A.K, Angus McIntosh, Peter Strevens (1964) The Linguistic Sciences and Language Teaching. London: Longmans.[12]Theo tài liệu https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.destatis.de/presse/deutsch/pm2006/p1340025.htm[13]Theo tài liệu https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.frankreich-experte.de/modules.phpXem thêm https://haokan.bounceme.net/dmirror/http/www.migration-info.de/migration_und_bevoelkerung/artikel/030606.htm[14]Trừ vài cộng đồng rất ít người như Nhật và Đại Hàn chưa được khảo sát.