Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2008

học thuyết Lão Tử 1 a.

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Học Thuyết Lão Tử 1a .

&&&

Phần Tổng Quan :

Đạo Đức Kinh , theo nhiều học giả Đông Phương cũng như Tây Phương , là 1 quyển sách thuộc về Tâm linh Đạo học , dành cho những người đi theo con đường Huyền Học và Siêu Thoát .

Nhưng theo 1 cách khách quan , ta phải nhìn nhận rằng Đạo Đức Kinh , trước hết , là 1 quyển sách dường như viết ra để kêu gọi các nhà cầm quyền và chánh khách dùng Đạo mà trị nước . Lão Tử thực ra là 1 Hiền giả đã cố gắng đem Đạo học vào Chánh trị , do những kinh nghiệm tâm linh của ông mà lập thành 1 hệ thống triết học .

Lịch sử nhân loại cận đại , chỉ thấy có 1 Gandhi là người duy nhất đã cố gắng đem áp dụng đạo học vào Chánh trị , nhưng tiếc thay , ông mất trong lúc công cuộc thực nghiệm chính sách “ bất tranh nhi thiện thắng “ đang thành công trong bước đường đầu .

Có kẻ cho rằng Lão Tử không siêu thoát bằng Trang Tử . Nói thế không đúng . Thực sự thì trong Đạo Đức Kinh , ta thấy Lão Tử ít nói về vấn đề siêu thoát , mà bàn rất nhiều về phương trị nước , tức là về phần chính trị . Sở dĩ Lão Từ ít nói đến phần tâm linh siêu thoát , chẳng phải vì ông không biết sự quan trọng của vấn đề ấy , mà vì ông muốn đem Đạo vào Chánh trị , mục đích duy nhất của ông trong khi trước tác .

Cho nên có người khuyên ta nên đọc Trang trước Lão sau , thiết nghĩ cũng không phải là không có lí do chánh đáng . Người muốn áp dụng được phương pháp “ Vô vi nhi trị “ hay “dĩ bất trị , trị thiên hạ “ cần phải trước nhất thực hiện được ít nhiều cái Đạo nơi mình , nghĩa là cần phải là 1 bậc Chân Nhân “Vô kỉ , vô công , vô danh “ tức là người không còn tư tâm tư dục nữa .

Đọc Trang trước Lão sau , tức là thực hiện Đạo theo từng giai đoạn : tự giác nhi giác tha .. Hai học thuyết ấy bổ túc cho nhau . Trước phải thoát tục , rồi sau mới hoàn tục để mà cứu dân cứu nước . Dù là Thích Ca hay Jesus cũng không làm khác hơn .

A) Đạo là gì ? Có lẽ Lão Tử là người đầu tiên trong các triết gia Trung Quốc đã dùng chữ Đạo để chỉ cái nguyên lí Tuyệt Đối của Vũ Trụ đã có từ trước khi khai thiên lập địa , không sinh , không diệt , không tăng , không giảm .Đạo có thể quan niệm dưới 2 phương diện : Vô và Hữu . Vô thì Đạo là nguyên lí của trời Đất , nguyên lí vô hình . Hữu , thì Đạo là nguyên lí hữu hình , là Mẹ sinh ra Vạn Vật “ Vô danh thiên Địa chi thủy , hữu danh vạn vật chi mẫu “ .

Đạo là 1 Nguyên Lí hoàn toàn huyền diệu siêu hình và bất khả tư nghị . người ta không thể định danh nó , cho nên gượng mà dùng đến danh từ ấy để tạm chỉ định . Hễ dùng đến danh từ để chỉ định , tức là vật được chỉ định đã bị hạn định , cho nên dùng đến danh , là chỉ để áp dụng cho những phần tử của Đạo bị phá ra mà thôi . Nghĩa là chỉ để ám chỉ 1 khía cạnh nào , 1 bề mặt hay bề trái nào của cái Đạo Một , cái đạo không thể phân chia .

Cho nên muốn được Đạo , không còn thể dùng đến Lí Trí , hiểu biết bằng sự so sánh , mà chỉ có thể hiểu biết được khi nào chính mình thực hiện được nó nơi bản thân : “ Đạo mà nói ra được , không còn phải là Đạo thường nữa , Danh mà gọi ra được , không còn phải là Danh thường nữa “ .

Như vậy , định cho Sự Vật 1 cái tên đó chỉ làm cho ta lìa xa với cái Chân Diện Mục của chúng , tức là cái Chân Lí toàn diện của Sự Vật .

Trong giới sắc tướng , thẩy đều biến động không dừng , không có sự vật nào mà không thay đổi hoặc mau hoặc chậm . Hay nói 1 cách khác , sự vật là vô thường . Bởi vậy hạn định nó trong 1 danh từ tịnh là sai . Ở đậy ta thấy Lão Tử chống lại với thuyết Chính Danh của Khổng Tử , và đề xướng thuyết Vô Danh . Nghĩa là Lão Tử quan niệm sự vật trong đời theo sự Thực Hiện của sự vật , nghĩa là cái Nhân Sinh Quan của ông Nhân Sinh Quan Động , không còn phải là Nhân Sinh Quan Tịnh nữa .

Không có 1 danh từ nào , không có 1 ý tưởng nào , cũng không có 1 sự phán đoàn về giá trị nào mà có thể gọi là Tuyệt Đối cả . Thảy đều Tương Đối , nghĩa là bao giờ cũng có phần đối đãi của nó , tốt và xấu , thiện và ác , thị và phi , dài và ngắn , cao và thấp ...

Hữu vô tương sanh , nan dị tương thành , trường đoản tương hình , cao hạ tương khuynh , âm thanh tương hòa , tiền hậu tương tùy . ( chương 2 )

Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ , tư ác dĩ . Giai tri thiện chi vi thiện , tư bất thiện dĩ .

( Thiên hạ đều biết tốt là tốt , thì đã có xấu rồi . Đều biết lành là lành , thì đã có cái chẳng lành rồi ) .

Cặp tương đối ấy luôn luôn nằm sẵn trong mọi sự mọi vật , và bất cứ trong đời sống ta lúc nào cũng thấy nó hiện lên và thường gây cho lòng ta nhiều tranh chấp vì mâu thuẫn.

Ta há không nhận thấy rằng lòng ta là cả 1 cái gì “ mâu thuẫn “ hay sao ? Vừa thương mà cũng vừa không thương , vì trong thâm tâm ta cảm thấy mất tự do khi bắt đầu yêu ai 1 cách tha thiết . Biết bao lần , lòng thì thuận , mà miệng thì chối từ , hoặc miệng thì ừ , mà lòng không thuận .

Cái gì đã khiến cho ta vừa cười vừa khóc , và tiếng khóc tiếng cười thường lại giống nhau ...? Phải chăng vì cảm xúc của ta mà lên đến cực độ lại càng giống nhau không thể phân biệt , nhất là trong sự yêu ghét . Thương nhau lắm , cắn nhau đau ! Tình yêu tha thiết thường lại nhường như giống với sự oán thù !

Cho nên mới nói :” ghét là cái bề trái của cái thương !” và thương ghét , tựu trung là Một . Đời sống nội tâm của con người khi Đạo bị chia lìa là 1 bầu Mâu Thuẫn , và vì thế “sống là khổ “ , bởi Thương là khổ mà Ghét cũng khổ . Và chỉ khi nào lòng ta không còn chia rẽ nữa , trở về sống được trong cái Sống Một thì mới mong giải quyết được vấn đề phân chia Nhĩ Ngã .

&&&

Không có nhận xét nào: