Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2008

học thuyết Lão Tử 1 a.

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Học Thuyết Lão Tử 1a .

&&&

Phần Tổng Quan :

Đạo Đức Kinh , theo nhiều học giả Đông Phương cũng như Tây Phương , là 1 quyển sách thuộc về Tâm linh Đạo học , dành cho những người đi theo con đường Huyền Học và Siêu Thoát .

Nhưng theo 1 cách khách quan , ta phải nhìn nhận rằng Đạo Đức Kinh , trước hết , là 1 quyển sách dường như viết ra để kêu gọi các nhà cầm quyền và chánh khách dùng Đạo mà trị nước . Lão Tử thực ra là 1 Hiền giả đã cố gắng đem Đạo học vào Chánh trị , do những kinh nghiệm tâm linh của ông mà lập thành 1 hệ thống triết học .

Lịch sử nhân loại cận đại , chỉ thấy có 1 Gandhi là người duy nhất đã cố gắng đem áp dụng đạo học vào Chánh trị , nhưng tiếc thay , ông mất trong lúc công cuộc thực nghiệm chính sách “ bất tranh nhi thiện thắng “ đang thành công trong bước đường đầu .

Có kẻ cho rằng Lão Tử không siêu thoát bằng Trang Tử . Nói thế không đúng . Thực sự thì trong Đạo Đức Kinh , ta thấy Lão Tử ít nói về vấn đề siêu thoát , mà bàn rất nhiều về phương trị nước , tức là về phần chính trị . Sở dĩ Lão Từ ít nói đến phần tâm linh siêu thoát , chẳng phải vì ông không biết sự quan trọng của vấn đề ấy , mà vì ông muốn đem Đạo vào Chánh trị , mục đích duy nhất của ông trong khi trước tác .

Cho nên có người khuyên ta nên đọc Trang trước Lão sau , thiết nghĩ cũng không phải là không có lí do chánh đáng . Người muốn áp dụng được phương pháp “ Vô vi nhi trị “ hay “dĩ bất trị , trị thiên hạ “ cần phải trước nhất thực hiện được ít nhiều cái Đạo nơi mình , nghĩa là cần phải là 1 bậc Chân Nhân “Vô kỉ , vô công , vô danh “ tức là người không còn tư tâm tư dục nữa .

Đọc Trang trước Lão sau , tức là thực hiện Đạo theo từng giai đoạn : tự giác nhi giác tha .. Hai học thuyết ấy bổ túc cho nhau . Trước phải thoát tục , rồi sau mới hoàn tục để mà cứu dân cứu nước . Dù là Thích Ca hay Jesus cũng không làm khác hơn .

A) Đạo là gì ? Có lẽ Lão Tử là người đầu tiên trong các triết gia Trung Quốc đã dùng chữ Đạo để chỉ cái nguyên lí Tuyệt Đối của Vũ Trụ đã có từ trước khi khai thiên lập địa , không sinh , không diệt , không tăng , không giảm .Đạo có thể quan niệm dưới 2 phương diện : Vô và Hữu . Vô thì Đạo là nguyên lí của trời Đất , nguyên lí vô hình . Hữu , thì Đạo là nguyên lí hữu hình , là Mẹ sinh ra Vạn Vật “ Vô danh thiên Địa chi thủy , hữu danh vạn vật chi mẫu “ .

Đạo là 1 Nguyên Lí hoàn toàn huyền diệu siêu hình và bất khả tư nghị . người ta không thể định danh nó , cho nên gượng mà dùng đến danh từ ấy để tạm chỉ định . Hễ dùng đến danh từ để chỉ định , tức là vật được chỉ định đã bị hạn định , cho nên dùng đến danh , là chỉ để áp dụng cho những phần tử của Đạo bị phá ra mà thôi . Nghĩa là chỉ để ám chỉ 1 khía cạnh nào , 1 bề mặt hay bề trái nào của cái Đạo Một , cái đạo không thể phân chia .

Cho nên muốn được Đạo , không còn thể dùng đến Lí Trí , hiểu biết bằng sự so sánh , mà chỉ có thể hiểu biết được khi nào chính mình thực hiện được nó nơi bản thân : “ Đạo mà nói ra được , không còn phải là Đạo thường nữa , Danh mà gọi ra được , không còn phải là Danh thường nữa “ .

Như vậy , định cho Sự Vật 1 cái tên đó chỉ làm cho ta lìa xa với cái Chân Diện Mục của chúng , tức là cái Chân Lí toàn diện của Sự Vật .

Trong giới sắc tướng , thẩy đều biến động không dừng , không có sự vật nào mà không thay đổi hoặc mau hoặc chậm . Hay nói 1 cách khác , sự vật là vô thường . Bởi vậy hạn định nó trong 1 danh từ tịnh là sai . Ở đậy ta thấy Lão Tử chống lại với thuyết Chính Danh của Khổng Tử , và đề xướng thuyết Vô Danh . Nghĩa là Lão Tử quan niệm sự vật trong đời theo sự Thực Hiện của sự vật , nghĩa là cái Nhân Sinh Quan của ông Nhân Sinh Quan Động , không còn phải là Nhân Sinh Quan Tịnh nữa .

Không có 1 danh từ nào , không có 1 ý tưởng nào , cũng không có 1 sự phán đoàn về giá trị nào mà có thể gọi là Tuyệt Đối cả . Thảy đều Tương Đối , nghĩa là bao giờ cũng có phần đối đãi của nó , tốt và xấu , thiện và ác , thị và phi , dài và ngắn , cao và thấp ...

Hữu vô tương sanh , nan dị tương thành , trường đoản tương hình , cao hạ tương khuynh , âm thanh tương hòa , tiền hậu tương tùy . ( chương 2 )

Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ , tư ác dĩ . Giai tri thiện chi vi thiện , tư bất thiện dĩ .

( Thiên hạ đều biết tốt là tốt , thì đã có xấu rồi . Đều biết lành là lành , thì đã có cái chẳng lành rồi ) .

Cặp tương đối ấy luôn luôn nằm sẵn trong mọi sự mọi vật , và bất cứ trong đời sống ta lúc nào cũng thấy nó hiện lên và thường gây cho lòng ta nhiều tranh chấp vì mâu thuẫn.

Ta há không nhận thấy rằng lòng ta là cả 1 cái gì “ mâu thuẫn “ hay sao ? Vừa thương mà cũng vừa không thương , vì trong thâm tâm ta cảm thấy mất tự do khi bắt đầu yêu ai 1 cách tha thiết . Biết bao lần , lòng thì thuận , mà miệng thì chối từ , hoặc miệng thì ừ , mà lòng không thuận .

Cái gì đã khiến cho ta vừa cười vừa khóc , và tiếng khóc tiếng cười thường lại giống nhau ...? Phải chăng vì cảm xúc của ta mà lên đến cực độ lại càng giống nhau không thể phân biệt , nhất là trong sự yêu ghét . Thương nhau lắm , cắn nhau đau ! Tình yêu tha thiết thường lại nhường như giống với sự oán thù !

Cho nên mới nói :” ghét là cái bề trái của cái thương !” và thương ghét , tựu trung là Một . Đời sống nội tâm của con người khi Đạo bị chia lìa là 1 bầu Mâu Thuẫn , và vì thế “sống là khổ “ , bởi Thương là khổ mà Ghét cũng khổ . Và chỉ khi nào lòng ta không còn chia rẽ nữa , trở về sống được trong cái Sống Một thì mới mong giải quyết được vấn đề phân chia Nhĩ Ngã .

&&&

Thứ Tư, 16 tháng 4, 2008

học thuyết Lão Tử 1b.

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Học Thuyết Lão Tử 1b .

&&&
Cho nên , đó là cái học chạy theo Thị Phi, Thiện Ác ; cái học chi li phân tán , cái học nhị nguyên , cái học má người muốn trở về với Đạo phải vứt bỏ . Chương 20 có viết :” Tuyệt học vô ưu , duy chi dữ a , tương khứ kỉ hà ? Thiện chi dữ ác , tương khứ nhược hà ? Lão Tử khuyên ta , nếu muốn được Đạo , đừng có nhìn sự vật bằng cập mắt nhị nguyên chia phân Nhĩ Ngã , mà phải nhìn thấy thẩy đều là 1 . Con người mà càng chạy theo cái học phân tán sẽ bị tâm hồn rối loạn vì hay phân biệt và biện biệt .

Cũng vì nhìn đời với cập mắt nhị nguyên nên gập Phải thì mừng , gập Họa thì buồn , mà không hay rằng Phúc đấy Họa đấy cũng không chừng , hay Họa đấy Phúc đấy cũng biết đâu !( Họa hề phúc chi sở ỷ ,phúc hề học chi sở phục ) ( Chương 58 ).

Ôi ! Phúc rồi họa , họa rồi phúc ... sự vật bao giờ cũng phản biến . Nghĩa là hễ biến , thì biến thành cái đối đích của nó . Tục ngữ của dân gian có câu :”Nay cười , mai khóc “. Và có nhận rõ được cái luật phản biến ấy của sự vật trên đời , thì Được không nên vội mừng , Mất không nên vội buồn ...Nhờ vậy mà lòng mới bình tĩnh thản nhiên trước mọi biến cố của cuộc đời .

Cái mà Lão Tử chống đối là sự nhìn cuộc đời bằng Lí Trí , tức là nhìn cuộc đời bằng khối óc chia phân Thiện Ác , Vinh Nhục , Thị Phi, Cao Thấp ...Cho nên muốn được Đạo , muốn có hạnh phúc thật sự , phải bỏ cái óc chia phân sự vật mà Lão Tử gọi là “Giải kì phân “ để mà thấy được sự Huyền Đồng của tất cả sự vật .

Cái lập trường chống Lí Trí của Lão Tử , là do nơi kinh nghiệm thuần túy tâm linh của ông . Tri thức không bao giờ đạt đến cái lẽ Tuyệt đối . Nguyên lí cùng tột của Vũ trụ Vạn Vật , tức là Đạo . Cho nên , những kẻ dùng đến Trí để mà hiểu Đạo là người Ngông . Đó là ông chống đối cái học La Tập , cái học chủ Trí của người đời .

Bậc Thánh Nhân sở dĩ đạt đến trạng thái Tuyệt Đối chỉ vì nhờ biết rõ mình là kẻ mắc cái bệnh nhị nguyên , cái bệnh phân tán , nên phỏng ngừa mà tỉnh ngộ .”Phù duy bệnh bệnh , thị dĩ bất bệnh “ ( chương 71 ). Phương pháp giải thoát , theo Lão Tử , là phương pháp tiêu cực . Đừng sa vào cái tập nguyện nhị nguyên , tức là gần được với đạo rồi đấy .

Và như vậy , cái mà theo Lão Tử gọi là cái học cao nhất lại giống như sự ngu dốt . Chương 45 ông nói :” Đại trực nhược khuất , đại xảo nhược chuyết , đại biện nhược nột “ . Hai chữ dường như cần phải nên chú ý . Dùng lời nói danh từ của giới nhị nguyên để diễn tả cái mà ta không thể phân chia ( là Đạo ) thật là 1 việc rất khó .

Bởi vậy Lão Tử thường phải mượn lối nghịch thuyết để nói về Chân Lí . Như khi ông nói :” Hữu sinh ư Vô “ hoặc “đại thành nhược khuyết , đại doanh nhược xung “ .Và đây là lối mà các đại triết gia biện chứng Tây Phương cũng thường dùng để miêu tả cái chân lí “ động “ và “ Trở nên “không phút nào im lặng , như Heraclite ( Hy Lạp ) trong câu : “ những cuộc Đại Thắng là những cuộc Đại Bại “ .

Câu “ đại doanh nhược xung ( đầy tràn , lại dường như trống không ) là chỗ mà Lão Tử muốn bảo Đạo trùm lắp Trời Đất Vũ Trụ , nhưng không làm sao thấy được , nên gần như không có gì cả .

Để diển tả cái chỗ trống không đó và công dụng của nó , ở chương 11 , ông ví nó như cái ổ trục của bánh xe, cái khoảng không của chén bát , cái chỗ trống của buồng the .

“Tam thập phúc , cộng nhất cốc , đương kì vô hữu xa chi dụng .Duyên thực dĩ vi khí, đương kì vô hữu , khí chi dụng .Tạc hộ dũ dĩ vi thất , đương kì vô hữu thất chi dụng “.

( Ba chục căm hợp lại 1 bầu , nhưng nhờ chỗ không mới có cái dùng của xe . Nhồi đất để làm chén bát , nhờ chỗ không mới có cái dùng của chén bát . Khoét cửa nẻo , làm buồng the , nhờ chỗ không mới có cái dùng của buồng the )

Đạo , thì Hư Vô , nhưng mà cái Đức của nó thì là nguồn gốc sinh ra Trời Đất Vạn Vật . Chữ Đức đây có nghĩa là “ mầm sống ngấm ngầm “ theo nguyên nghĩa của nó . Lão Tử dùng chữ Đức đây là với cái nghĩa siêu hình của nó , chứ không còn phải với cái nghĩa Luân Lí thông thường nữa . Thật vậy ông nói :” Khổng Đức chi dung , duy Đạo thị tòng “ ( Dáng của Đức lón, thì theo cùng với Đạo ).

Một chỗ khác , ông nói :” Đạo sinh chi , Đức súc chi , trưởng chi dục chi , đình chi độc chi , dưỡng chi phúc chi ...”
( Đạo thì sinh mà Đức thì nuôi nấng và đùm bọc . Bởi vậy mới thường gọi là Huyền Tẫn , mẹ nhiệm mầu .)

&&&

Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2008

học thuyết Lão Tử 2

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Học Thuyết Lão Tử 2 .

&&&
B) Cái Động của Đạo : Trời đất vạn vật do Đạo mà ra , nhưng rồi đều trở về với Đạo .

Chương 40 ông nói :” Phản giả đạo chi Động “ ( trở về là cái động của Đạo ) . Đó là con đường đi về , còn con đường đi ra thì “đạo sinh nhất , nhất sinh nhị , nhị sinh tam , tam sinh vạn vật . Vạn vật phụ Âm nhi bảo Dương . Xung khí dĩ vi hòa “ .( Đạo sinh 1 , 1 sinh 2 , 2 sinh 3 , 3 sinh vạn vật .Trong vạn vật không vật nào mà không cõng Âm và bồng Dương . Nhân chỗ xung nhau mà hòa nhau ) .

Nhất đây , là cái Thế Duy Nhất của Đạo . Nhị , là trỏ vào 2 khí Âm Dương , tức là 2 nguyên lí mâu thuẫn nhau , nhưng bổ túc nhau đồng có ở trong mỗi vật , và vì thế mới có nói “ trong vạn vật không vật nào không cõng Âm và bồng Dương “ . Giữa sự xô xát , xung đột nhau của 2 nguyên lí mâu thuẫn ấy , lại có Một cái nắm giềng mối và làm cho nó phải sống chung và dung hòa với nhau mà không thủ tiêu nhau , cái đó là nguyên lí thứ 3 ; cái mà Lão Tử gọi là cái Dụng của Đạo , “ xung khí dĩ vi hòa “. Tức là cái Nguyên Lí làm cho cái khí xung đột giữa 2 nguyên lí mâu thuẫn điều hòa với nhau . Đến khi được cái số 3 đó , thì vạn vật mới thành hình , nên mới gọi là “ tam sinh vạn vật “ .
Như vậy , ta thấy rằng Lão Tử có thể đã căn cứ vào Dịch Học :”Thái cực sinh lưỡng nghi “ để lập thành cái học “nhất sinh nhị “ của ông . Nhưng ông chỉ mượn cái Đạo “đi ra “của Dịch ,vì Dịch chủ trương Âm Dương để diễn tà cái Đạo biến đổi mà thôi .

Lão Tử nhân đó , bàn về cái đạo “ trở về “ ( phản phục ) , nghĩa là ông vượt cái học Nhị Nguyên của Dịch để chủ trương cái Đạo ”qui Chân phản Phác “ .

Theo Lão Tử , vạn vật đều động chuyển theo 2 khuynh hướng nghịch nhau : Đi Ra rồi Trở Về . Chương 16 ông nói :” Vạn vật tịnh tác , ngô dĩ quan phục . Phù vật vân vân , các phục qui kì căn ... “

( Vạn vật cùng đều sinh ra , ta lại thấy nó trở về gốc ; ôi , vạn vật trùng trùng , đều trở về cội rễ của nó ) . Mà trở về cội rễ , tức là trở về gốc Tịnh của nó ( tức là trở về với vô vi )

“Qui căn viết Tịnh , thị vị viết phục mạng , phục mạng viết thường “ . ( trở về cội rễ , gọi là Tịnh , ấy gọi là phục mạng . Mà phục mạng gọi là thường ) Thường tức là Đạo vậy .

Nhân quan niệm về chữ Thường , tức là 1 cái gì bất di bất dịch nắm cả giềng mối Vạn Vật Vũ Trụ , nên Lão Tử nghĩ đến 1 cái gì như là 1 thứ Định Mạng trong sắc giới :”Thiên võng khôi khôi , sơ nhi bất thất “ ( Lưới trời lồng lộng , tuy thưa mà chẳng lọt ) .

Lưới trời , tức là cái luật tự nhiên mà không vật nào trong Vũ Trụ thoát khỏi . “Thiên Đạo vô thân “ ( Đạo trời không thân ai cả ) ( Chương 79 ) .

Trong tất cả các luật của Tạo Hóa , thì cái luật lớn nhất và quan trọng nhất là luật Phản Phục . hễ : “ vật cùng tắc phản , vật cực tắc biến “ .

Chương 25 nói :” Thệ viết viễn , viễn viết phản “.Nghĩa là mỗi vật , khi mà đi đến cực độ thì phải biến , mà biến thì lại biến trở về cái đối đích của nó . Phải biến Quấy , Nên biến Hư , Sống biến Chết , Lạnh biến Nóng ,Vinh biến Nhục , Thiện biến Ác ...hoặc trái ngược lại .

Đó là 1 cái luật Thường , bất di bất dịch của Tạo Hóa : Cái gì lên cao , thì xuống thấp . Cho nên , hòng muốn thu rút , là sắp mở rộng cho đó ra . Hòng muốn làm yếu đó , là sắp làm đó mạnh lên . Hòng muốn vứt bỏ đó , là sắp làm hưng khởi đó . Hòng muốn cướp đoạt đó , là sắp ban thêm cho đó . Ấy là ánh sáng Huyền Vi , mềm yếu thắng cứng mạnh “

( Tương dục hấp chi , tất cố trương chi . Tương dục nhược chi , tất cố cường chi . Tương dục phế chi , tất cố hưng chi . Tương dục đoạt chi , tất cố dữ chi .Thị vị vi minh , nhu nhược thắng cương cường ) ( chương 36 ) .

Tóm lại , những câu như :” Ít thì lại được , nhiều thì lại mê “ ( thiểu tắc đắc , đa tắc hoặc ) ( chương 22 ) .

Gió lốc không thổi suốt 1 buổi mai , mưa dào không mưa suốt 1 ngày trường . ( Phiêu phong bất chung triêu , sậu vũ bất chung nhật )( chương 23 ) .

Cái rất mêm trong thiên hạ , thắng cái rất cứng trong thiên hạ . ( Thiên hạ chi chí nhu , trì sính thiên hạ chi chí kiên ) . ( Chương 43 ).

Bớt là thêm , thêm là bớt ( Tổn chi nhi ích , ích chi nhi tổn ) ( chương 42 ) .

Đều do cái luật Phản Phục mà ra cả ! Nhưng đối với người thường , thì lại thấy rất là trái ngược , mâu thuẫn . Bởi vậy ,ở chương 41 , Lão Tử mới nói : “ Hạ sĩ văn Đạo , đại tiếu chi “ ( kẻ sĩ bậc thấp mà nghe nói đến Đạo , sẽ cả cười mà bỏ qua ) .
Tuy vậy , nếu bảo rằng “ vật cực tắc phản “thì chữ cực đây phải hiểu như thế nào ? Đâu là chỗ cùng cực của mỗi vật ? Không thấy Lão Tử bày giải chỗ nào cả . Không nói ra , có lẽ là vì Lão Tử hiểu rằng mọi vật , vật nào cũng có cái cùng tận của nó , không có 1 mực độ cùng tận nào có thể lám mực độ chung choo vạn sự vạn vật trong đời .

Cho nên ông mới nói :” Tri túc chi túc thường túc hĩ “ ( biết đủ trong cái đủ , thì luôn luôn đủ ) . Cái gọi là đủ , không thể giống nhau đối với mọi người . Có khi cái mà người này thấy đủ , lại không đủ với người kia . Hoàn cảnh , địa vị , sức khỏe , lớn nhỏ , thời buổi ... đều khác nhau , không sao đưa ra 1 số lượng nào gọi là số lượng mẫu và đầy đủ cho cho tất cả mọi người mọi vật .

Cái đủ của người mạnh không giống với cái đủ của người yếu .Cái vừa đủ đối với người khỏe , không còn là cái vừa đủ nữa đối với người đau , và ngay đối với chính bản thân của mình cũng vậy , cái mà hôm nay cho là đủ , ngày mai sẽ là thiếu không chừng !

Lấy ngay trong việc ăn uống cũng đủ thấy rõ : cái mà ta thường gọi là món ăn vừa đủ cũng phải tùy ... tùy tuổi tác , tùy sức khỏe , tùy chất bổ nhiều ít của món ăn , không sao nhất luật đặng .

Đó là những cái mà Lão Tử gọi là Thường , nghĩa là bất biến , và luôn luôn đúng với tất cả vạn vật . Cho nên người sáng suốt phải là người thông suốt những cái luật ấy mà tuân theo :” Tri thường viết minh “.( Kẻ nào biết những luật Thường ấy là người sáng suốt ) .

Và trái lại , kẻ nào không biết đến nó , sẽ bị tai họa suốt đời ! “ Bất tri thường , vọng tác hung “ .( Không biết Đạo thường ấy , là gây hung họa cho mình ) . Cho nên ai mà được Đạo Thường ấy , suốt đời không nguy . ( Một thân bất đãi ) .

&&&

Thứ Tư, 9 tháng 4, 2008

học thuyết Lão Tử 3

Lão Tử Tinh Hoa – Thu Giang Nguyễn Duy Cần .
Học Thuyết Lão Tử 3 .

c) Huyền Đồng :
Trong khi nói Đạo là mẹ nuôi của muôn loài :” Hữu danh vạn vật chi mẫu “, ta thấy là hình ảnh của 1 Bà Mẹ lả đầu mối của học thuyết Lão Tử , và Lão Học là là cái học chú trọng về phần Âm . ( Thiên hạ có nguồn gốc , dùng làm Mẹ của thiên hạ . Hễ giữ được Mẹ , thì biết được con . Đã biết được con , trở về với Mẹ ; thân đến chết không nguy )

( Thiên hạ hữu thủy , dĩ vi thiên hạ Mẫu . Kí đắc kì Mẫu , dĩ tri kì Tử . Kí tri kì Tử , phục thủ kì Mẫu . Một thân bất đãi )( chương 52 ) .

Đã biết được con , trở về với Mẹ , là nghĩa làm sao ? “Con “ đây là ám chỉ vạn vật . Sau khi cái học của mình về cái học trục vật mà đi đến cùng tột rồi thì con người lại “ trở về với Đạo “ Cũng như văn minh vật chất mà đến mức cùng tột rồi , bèn sẽ xoay về tinh thần . Bởi vậy mới có người bảo rằng cái học nguyên tử ngày nay của Tây Phương “ trở lại “ gặp gỡ với Huyền Học của Đông Phương .

Vấn đề đồng nhất của Tâm và Vật , Vật Chất và Tinh Thần ... trước những phát minh về nguyên tử lực không còn phải là 1 vấn đề siêu hình nan giải nữa .

Cái kiếp số con người , cũng như của vạn vật là sớm muộn phải “ trở về với Đạo “ ( Các phục qui kì căn ) ( mọi vật trùng trùng , đều trở về với cội rễ của nó cả ) . Trở về được với Đạo , thì người ta mới được “ trường cửu “ , hay nói 1 cách khác , người ta mới thực hiện được cái Chân Tánh của mình , tức là cái mà Lão Tử gọi “ tử nhi bất vong “ ( chương 33 ) .

Nhưng làm sao thực hiện được sự Huyền Đồng ấy với Đạo ? Phải “ kiến tố bảo phác “ , và “thiểu tư quả dục “ , nghĩa là trở về với đời sống giản dị tự nhiên , ít tư riêng , ít tham dục . Công việc này chỉ là bước đầu : Con đường Tâm Trai , gột sạch lòng vị kỉ đủ mọi phương diện :”Vi Đạo nhật tổn , tổn chi hựu tổn , dĩ chí ư vô vi “

( theo Đạo ngày càng bớt , bớt rồi lại bớt , đến mức vô vi )

Vô vi đây là vô dục vậy . Phải dứt bỏ : dứt bỏ cả lề lối suy tư theo la tập Nhị Nguyên , dứt bỏ cả lòng ham muốn riêng tư , dứt bỏ cả cái học trục vật , chạy theo danh lợi bên ngoài ... Dứt bỏ cả cái lòng đèo bòng tham muốn theo những tánh phận bên ngoài ...

Tóm lại , phải dứt bỏ cái ta nhân tạo , giả dối để trở về với cái ta đồng nhất với đạo , trở về thanh tĩnh và vô vi .

Khi mà giai đoạn đầu này được thực hiện đầy đủ , thì mới bước qua giai đoạn “ ngộ Đạo “ . Hễ trí hư cực , thủ tĩnh đốc . Bấy giờ mới có thể hốt nhiên đại ngộ .

Lão Tử không thấy nói về giai đoạn này , vì ông cho rằng “ tri giả bất ngôn , ngôn giả bất tri “ nhưng ông chỉ cho ta biết rằng trong cái trạng thái Huyền Đồng ấy , tất cả mọi sự mọi vật đều hòa lẫn nhau không còn thấy riêng tư , phân biệt nữa .Trước con mắt của người đã thực hiện được sự Huyền Đồng , thì tất cả đều là 1 .

( Giả kì phân , hòa kì quang , đồng kì trần ,,, thị vị Huyền Đồng )

( Bỏ chia phân , hòa ánh sáng , đồng bụi bậm , ấy gọi là huyền đồng ) .

Trong những câu như :” Đại phương vô ngung , đại khí vãn thành ,đại âm hi thanh , đại tượng vô hình “ . ( Vuông lớn không góc , chậu lớn muộn thành ; âm lớn ít tiếng , tượng lớn không hình ).

Hoặc :” kì thượng bất kiểu , kì hạ bất muội ...vô vật chi tượng , thị vị hốt hoảng ... nghinh chi bất kiền kì thủ , tùy chi bất kiền kì hậu ...đều là những chân lý mà ông gượng miêu tả trong những khí huyền hóa , tức là những lúc ông Kiến Độc và Triêu Triệt ..

( trên nó thì không sáng , dưới nó thì không tối ...) (Cái hình tượng của cái không có vật nên gọi là như có mà như không ...) (Đón thì không thấy đầu , theo nó thì không thấy đuôi ) .

Sự Huyền Đồng với Đạo mưu cho con người được 1 sự yên tĩnh và khoan khoái tâm hồn mà không còn có 1 khoái lạc nào khác trên đời so sánh kịp ... Không phải là 1 thứ vui sướng , nhưng là 1 cái gì nhẹ nhàng lâng lâng khác thường mà chỉ có ai đã nếm qua mới ý thức được đôi phần . ( Đạo chi xuất khẩu , đạm hề kì vô vị . Thị chi bất túc kiến , thính chi bất túc văn , dụng chi bất túc kí ) .

( Đạo ra cửa miệng , lạt lẽo vô vị , nhìn không đủ thấy , lắng không đủ nghe , nhưng mà dùng nó không hết ).

Mùi vị của Đạo , đối với những khoái lạc nồng nhiệt trong đời , thì thấy như là lạt lẽo vô vị ,” nhìn không đủ thấy , lắng không đủ nghe “ , nghĩa là không thể nào tả được .

Sự Huyền Đồng với Đạo có đem lại cho con người quyền lực nào chăng ? Có làm cho người được pháp lực phi thường nào không ? Đó là thắc mắc của số đông người học Lão Trang tự hỏi . Bởi vậy , về sau để trả lời câu hỏi ấy , nhóm Đạo gia mới bày ra những câu chuyện Thần Tiên , trong đó Lão Tử được tôn làm Thái Thượng Lão Quân , và Trang Tử được tôn làm Nam Hoa Đại Lão Chân Tiên .

Thực ra vấn đề này không thấy Lão Tử bàn đến , người ta chỉ biết Lão Tử đặt kẻ “ Đắc Đạo “ như 1 Đứa Anh Nhi tuy không làm gì cả mà “ độc trùng không cắn được , thú dữ không ăn được , ác điểu không xớt được “ .

Toàn là lời nói bóng mà ta phải hiểu như thế này :” người đã được Đạo , giống như cái Đức của đứa trẻ sơ sinh : “ kẻ mà đức dầy , giống như con trẻ “ . Chữ Xích Tử đây là ám chỉ cái tâm trạng của đứa trẻ sơ sinh , không dục vọng , bình thản đối với ngoại vật , nên ngoại vật không động được tâm và làm thương sinh . Cho nên mới nói “ độc trùng không cắn được “.

Những danh từ hư ảo , mập mờ ấy khiến người ta hiểu lầm và cho là quyền phép lạ lùng , nhân đó mới có việc tin tưởng bâng quơ sau này của phái Thần Tiên ... Tuy vậy kẻ Huyền Đồng được với Đạo , dù không biết được họ có quyền lực gì khác người chăng , song chắc chắn họ sẽ không giống người đời , từ tư tưởng , tình cảm và hành vi .

Và chắc chắn họ là người không còn đau khổ nữa ,vì chỉ có Bản Ngã mới là nguồn gốc của đau khổ mà thôi . Mà kẻ Huyền Đồng với Đạo là người không còn sống cho mình nữa .

&&&

Thứ Tư, 2 tháng 4, 2008

Học thuyết Lão Tử 4

Lão Tử Tinh Hoa - Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Học Thuyết Lão Tử ( 4) .

Làm cách nào để nhận biết 1 người đã bắt chước Đạo ? đã theo con đường của Đạo ? Lão Tử nói :” Lời nói của ta rất dễ hiểu , rất dễ làm . Thế mà , thiên hạ không ai hiểu , không ai làm . ( chương 70 ).

Tại sao dễ hiểu , dễ làm – mà thiên hạ phần đông lại không chịu hiểu , không chịu làm ? Phải chăng vì làm theo Đạo , thì lại chạm đến lòng vị kỉ của mình , nên không ai muốn làm ?

Theo Đạo thì phải biết dừng , biết đủ , mà lòng vị kỉ thì không biết sao dừng được dù Lão Tử thường căn dặn “ Họa mạc đại ư bất tri túc “! Cho nên theo đạo khó !

Theo Đạo thì phải biết “ làm mà không cậy công , công thành rồi không nên ở lại , không để cho ai thấy cái tài hiền của mình “ . ( Vi nhi bất thị , công thành nhi bất xử , bất dục kiến hiền ) . Mà tình đời thì làm ít lại muốn hưởng nhiều , chỉ sợ người khác không biết ân , cho nên làm 1 mà kể công 10 , công thành rồi thì ở mà hưởng , hưởng đến đời con , đời cháu cũng chưa vừa lòng , suốt đời chỉ lo sợ không ai biết đến tài hay trí cả của mình ! Cho nên theo Đạo càng khó !

Theo Đạo thì phải “ như cây cung mà giương lên : chỗ cao thì ép xuống , chỗ thấp thì nâng lên ( có dư thì bớt đi , không đủ thì bù vào ) . Bớt chỗ dư , bù chỗ thiếu .

Nhưng mà lòng của nhân thế thì sao ? “ Đạo của người thì không vậy , bớt chỗ thiếu , bù chỗ dư !” . Thường hay vị thân , vị kỉ , kết phe với kẻ đắc thời , cầu thân với người đắc thế ... để dựa vào đó mà bóc lột , lợi dụng những kẻ vô cô , bất hạnh ! Cho nên theo Đạo rất khó !

Theo Đạo , thì phải hạ mình , làm kẻ thấp , sống trong bóng tối “ không tự xem mình là sáng ...không tự cho mình là phải ...không tự hào và khoe khoang “ ( chương 22 ) . Như vậy thì cái lòng hiếu danh chỉ suốt đời nơm nớp sợ không ai biết đến tên tuổi của mình và mong mỏi được lưu danh ư hậu thế , muốn cho ai ai cũng phải thờ kính và phục tùng theo cái lẽ phải của mình vì “ đời đục cả , 1 mình ta trong , đời say cá mình ta tỉnh “ phải dựa vào đâu mà tồn tại ? Cho nên theo Đạo thật là vô cùng khó vậy !

Lại nữa , theo Đạo phải biết “ dĩ đức báo oán “ và phải biết “ với kẻ lành , thì lấy lành mà ở , với kẻ chẳng lành , cũng lấy lành mà ở . Với kẻ thành tín , thì lấy thành tín mà ở , với kẻ không thành tín , thì cũng lấy thành tín mà ở . ( chương 49 ) .

Như vậy thì làm sao mà hả được cái lòng căm thù của mình , và ít ra , nếu người ta “ móc mình 1 con mắt “ thì mình cũng phải biết “ nằm gai nếm mật “ để Ân thì Đền , mà Oán phải Trả . “Móc lại họ 1 con mắt “ mới hợp công bình chứ ! Vậy thì theo Đạo , quả là không thể nào làm được , đừng nói là khó làm !

Tóm lại Đạo của Lão Tử không có gì là khó hiểu , khó làm ... Người ta sở dĩ không chịu hiểu , không chịu làm , là vì tâm hồn con người quá hẹp hòi ích kỉ . Và vì vậy mà từ xưa đến nay , tiếng nói của ông , tuy xét theo Lí thì rất xác đáng , mà theo Tình thì không mấy ai chịu làm theo ! Cho nên Thích Ca mới bảo :” Đời là bể khổ “ ! Mà Lão Tử cũng đã phải than :

Người đời vui vẻ , ( chúng nhân hi hi )
Như hưởng thái lao , ( như hưởng thái lao )
Như lên Xuân đài , ( như xuân đăng đài )
Riêng ta im lặng , ( ngả độc bạc hề )
Chẳng dấu vết chi , ( kì vị triệu )
Như trẻ sơ sinh , ( nhi anh nhi )
Chưa biết tươi cười , ( chi vị hài )
Rũ rượi mà đi ,( luy luy hề )
Đi không chỗ về , ( nhược vô sở qui )
Người đời có dư ,( chúng nhân giai hữu dư )
Riêng ta thiếu thốn , ( nhi ngã độc nhược di )
Lòng ta ngu dốt vậy thay , ( ngả ngu nhân chi tâm dã tai )
Mỏi mệt chừ ! ( dộn độn hề )
Người đời sáng chói , ( tục nhân chiêu chiêu )
Riêng ta mịt mờ , ( ngã độc hôn hôn )
Người đời phân biện ,( tục nhân sát sát )
Riêng ta hỗn độn , ( ngã độc muộn muộn )
Điềm tĩnh dường tối tăm ,( đạm hề kì nhược hải )
Vùn vụt dường không lặng , ( liêu hề nhược vô chỉ )
Người đời đều có chỗ dùng , (chùng nhân giai hữu dĩ )
Riêng ta ngu dốt , thô lậu , ( nhi ngã độc ngoan thả bỉ )
Ta riêng khác người đời ...( ngã độc dị ư nhân )...

( chương 20 )

&&&

Ghi nhận :
Con người thường kết bè kết đảng , tụ tập ăn nhậu . Không chịu tu thân dưỡng tánh , ngồi thiền suy nghĩ 1 mình ...
Mà thường Nhàn cư vi bất thiện , đua đòi ăn chơi trác táng , dâm dục .
Tất cả đều vì lòng tham sân si mà ra !
Không ai dám tu ! Mà cho Tu là lỗ , hưởng thụ nhiều , tích trữ của cải vật chất nhiều thì có lãi !
Mai sau ,đau ốm , bệnh tật , thì lúc đó có theo Lão , Phật , thì cũng quá muộn !
Gieo nhân nào ,chịu quả đó ! Không thể than vãn được !

&&&

Cái học ngày nay cũng thế . Ai cũng tham học những ngành kiếm ra tiền , rốt cục chỉ để nuôi dưỡng cái lòng tham ăn , tham uống , tham sắc mà thôi !
Ngành quảng cáo lại cho mọi người những cảnh tượng hưởng thụ . và Đạo Đức không còn trên thế gian này !
Nam Mô A Di Đà Phật !
&&&

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2008

Học thuyết Lão Tử 5

Lão Tử Tinh Hoa - Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Học Thuyết Lão Tử ( 5) .

D )Chính Trị :

Như đã nói trước đây . Đạo Đức Kinh sở dĩ viết ra là để cho những nhà trị nước , hay những kẻ sắp ra cầm quyền trị nước . Có lẽ vì mục kích hỗn trạng cực kỳ thê thảm đời Xuân Thu Chiến Quốc mà Lão Tử , cũng như Khổng Tử , Mặc Tử cùng các Pháp gia thời ấy , cố ý đưa ra 1 giải pháp an bang tế thế . Thật vậy , ông nói : ” dân chi cơ , dĩ kì thượng thực thuế chi đa , dân chi nan trị , dĩ kì thượng chi hữu vi ; dân chi kinh tử , dĩ kì cầu sinh chi hậu “.

( Dân mà đói , là vì trên bắt thuế nhiều . Dân mà khó trị , là vì trên dùng đạo hữu vi . Dân mà coi thường cái chết , vì quá trọng cầu cái sống ) .

Bởi vậy , dù có đem cái chết mà dọa dân chúng , cũng không ích gì cả , trong khi dồn họ vào nơi tuyệt vọng ...” dân chi úy tử , nại hà dĩ tử cụ chi “ . ( dân không sợ chết , làm sao lấy chết dọa đó) ( chương 74 ).

Như vậy , ta thấy trị nước , Lão Tử , chống lại với những hình phạt tru lục của Pháp Gia thời đó . Ham sống , sợ chết là thiên tính của loài người . Nhưng làm cho dân không sợ chết nữa , là vì đã quá dùng cái chết mà sát phạt nó . Đó là 1 chân lí , dù mới xem dường như là trái ngược với lẽ thường .

Trong những chế độ hà khắc bạo ngược , hay dùng đến cực hình , dân chúng hàng ngày thường sống trong cảnh không có ngày mai . Thét rồi , họ không còn sợ chết nữa . Dân mà không còn sợ chết nữa , thì dùng cái chết mà dọa chúng có ích gì ? Các nhà xã hội học ngày nay cũng chứng nhận rằng : cực hình càng tăng , số tội ác càng thêm !

Thời Chiến Quốc , giặc giã liên miên , người ta chết , thây nằm chật đất , bởi vậy không có tai họa nào lớn trong đời bằng cái họa chiến tranh . Cho nên ông khuyên :” Kẻ lấy Đạo thờ vua không nên dùng đến binh mà bức thiên hạ “.

Đối với những tai họa đã kể trên , người trị nước phải làm cách nào ? Đồng ý với Khổng Tử , Lão Tử cũng chủ trương cần phải có 1 bậc Hiền để cầm quyền thiên hạ . Nhưng người cầm quyền trị nước , theo Khổng thì có khác với người cầm quyền trị nước theo Lão .

Trong khi theo Khổng thì người trị nước phải hành theo Đạo hữu vi , nghĩa là chế Lễ , tác Nhạc và Làm rất nhiều ...

Còn bậc trị nước theo Lão , trái lại , càng làm ít càng hay , và không làm gì cả lại càng tốt hơn ! Là vì theo Lão Tử : việc đời mà đa đoan , việc người mà rối rắm , chẳng phải vì những việc người ta đã lo cho đời quá ít , mà chính vì những việc mà người ta đã lo cho đời quá nhiều .

Ông nói :” thiên hạ đa kị húy , nhi dân di bần . Dân đa lợi khí , quốc gia tư hôn . Nhân đa kĩ xảo , kì vật tư khởi . Pháp lệnh tư chương , đạo tặc đa hữu “ .
( Thiên hạ mà nhiều kiêng kị ,thì dân chúng càng nghèo . Nhân dân nhiều lợi khí , thì nước nhà càng tối tăm .Người người nhiều tài khéo , vật lạ càng nẩy sinh . Pháp lệnh càng rõ rệt , trộm cướp càng sinh nhiều ).

Cho nên bậc Thánh nhân trị nước phải lo “ đứt thánh bỏ trí , dân lợi trăm phần . Dứt nhân bỏ nghĩa , dân lại thảo lành . Dứt xảo bỏ lợi , trộm cướp không có “.

Một nơi khác ông cũng nói : ” không tôn bậc hiền tài , khiến cho dân không tranh . Không quí của khó đặng , khiến cho dân không trộm cướp . Không phô điều muốn , khiến lòng dân không loạn . Vì vậy , cái trị của Thánh nhân là làm cho dân hư lòng , no dạ , an ( yếu ) chí , mạnh xương . Thường khiến cho dân không biết , không ham , khiến cho kẻ trí không dám dùng đến cái khôn của mình . Làm theo Vô Vi , ắt không có gì là không trị được .

( Bất thượng hiền , xử dân bất tranh . Bất quí nan đắc chi hóa , sử dân bất vi đạo . Bất kiến khả dục , sử dân tâm bất loạn . Thị dĩ Thánh nhân chi trị , hư kì tâm , thực kì phúc , nhược kì chí , cường kì cốt . Thường sử dân vô tri vô dục , sử phù trí giả bất cảm vi dã . Vi vô vi , tắc vô bất trị ).

Đó là dùng phương pháp tiêu cực , thủ tiêu mọi nguyên nhân gây lòng tham dục của con người trước hết , thì nó lấy đâu mà bùng cháy ? Bậc Hiền Tài cũng như Của Khó Đặng , là những cái mồi làm cho lòng dân sanh loạn . Nó có khác nào những chất củi khô làm bổi cho ngọn lửa tham dục dấy lên . Cho nên trị loạn sao bằng phòng loạn , rút củi ra thì lửa tắt đi .

&&&

Trẻ con , lòng ít tham dục , nên đời sống của nó còn tự nhiên chất phác , giản dị ... Cho nên Lão Tử mới nói :”Hàm đức chi hậu ,tỉ ư xích tử “ , nghĩa là đem kẻ đức dầy mà ví với đứa con đỏ . Bậc Thánh nhân trị nước , vì vậy , xem dân như đứa trẻ :thánh nhân giai hài chi . Và không làm cho nó Sáng , mà làm cho nó Ngu :” Cổ chi thiện vi đạo giả , phi dĩ minh dân , tương dĩ ngu chi “.

( Bậc Thánh nhân trị nước mà khéo thi hành Đạo , thì không làm cho dân sáng mà làm cho dân Ngu )

Chữ Minh Dân và Ngu Dân ở đây không còn có cái nghĩa thông thường của nó nữa . Minh dân không có cái nghĩa là mở rộng óc thông minh , Ngu Dân cũng không có nghỉa là làm cho đầu óc con người trở nên ngu đần . Chữ Minh đây , là Đa Kiến Xảo Trá , và chữ Ngu đây là Thuần Hậu Thật Thà .

Cái đạo trị nước hay nhất để đem lại hạnh phúc cho nhân dân là đưa họ trở về 1 đời sống thật thà và giản dị .

&&&