DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN.
LỜI NÓI ĐẦU ( 2) :
&&&&&&
Phải thật hiểu rõ 4 chữ Thời , Vị , Trung , Chánh thì đọc Dịch mới thông . Người quân tử mà dùng không đúng thời , đặt không đúng chỗ sẽ không dùng được chỗ nào hết . Trái lại , kẻ tiểu nhân mà đặt đúng chỗ , dùng đúng thời , tiểu nhân vẫn đắc dụng . Dịch không nói thị phi . Dịch chỉ nói về lẽ lợi hại , kiết hung mà thôi . Là vì Dịch chú trọng đến tự nhiên , gần với Lão trang hơn là gần với tư tưởng Nho Gia chú trọng nhiều về mối tương giao giữa người và người .
Quẻ Tiểu Quá , lời Thoán có câu : Nhu đắc Trung , thị dĩ tiểu sự kiết dã . Cương thất vị nhi bất trung , thị dĩ bất khả đại sự dã . Trong quẻ Tiểu Quá , hào 2 và 5 là 2 hào đắc trung , nhưng cả 2 đều là hào Âm .Theo thông lệ , Âm là hàng tiểu nhơn . Dù là Âm Nhu ( tiểu ) mà đắc trung , thì làm việc nhỏ được thành công . Trái lại , làm việc lớn phải có tài ( dương ) và dương có đắc vị mới làm được việc .
Nhưng ở đây , 2 hào Dương đều thất vị cả , lại chẳng được đắc trung làm sao đảm đương việc lớn cho nổi ?
Vì sự quan trọng của chữ Thời trong Kinh Dịch , nên mới có câu : Chu Dịch nhất bộ thơ , khả nhất ngôn nhi tế chi , viết Thời . Toàn bộ Chu Dịch , có thể tóm có 1 lời : là chữ Thời mà thôi .
Dù có đến 64 quẻ , chỉ có 1 cơ 1 ngẫu mà thôi . Nhưng vì 2 chữ Thời và Vị không đồng nhau mà mới có cái biến vô cùng của sự vật . Con người cũng vậy , chỉ có 1 động 1 tịnh nhưng vì Thời và Vị không đồng nhau mới có sinh ra vô số đạo lí khác nhau . Sở dĩ gọi là Dịch , chính vì thế .
( Lục thập tứ quái chỉ thị nhất cơ nhất ngẫu , đản nhân sở ngộ chi thời , sở cư chi vị bất đồng , cố hữu vô cùng chi sự biến . Như Nhân chỉ thị nhất động nhất tịnh , đản nhân Thời Vị bất đồng , cố hữu vô cùng chi Đạo lí . Thử sở dĩ vi Dịch dã ) .
&&&
Trước khi đọc Dịch cần có 1 luồng mắt thống quan , nắm được 1 số nguyên lí căn bản thì đọc Dịch mới có chỗ hứng thú và thụ dụng . Tuy sau đây , tôi chỉ trình bày 1 cách sơ lược , nhưng có thể tạm gọi là vừa đủ cho các bạn mới bắt đầu khỏi bị hoang mang trước 1 rừng tư tưởng đầy mâu thuẫn , nhưng là những thứ tư tưởng bao trùm mà Tây Phương ngày nay gọi là “ pensée planétaire “ chứ không phải những thứ tư tưởng duy lí phiến diện và 1 chiều của Tây Phương lí trí .
Triết học Kinh Dịch là 1 thứ triết lí hết sức thực dụng và ngay trong công việc bốc phệ cũng đều là cơ hội để nhắc nhở con người cái luật phản phục , tức là cái đạo “ tri tiến thoái , tồn vong nhi bất thất kì chánh “ của bậc Thánh Nhân tinh thông Dịch Lí . Dù là được quẻ tốt hay xấu , dù là hỏi đến quẻ hay không hỏi đến quẻ , dủ chỉ đọc Dịch trong lúc thanh nhàn nghiên cứu , thì quẻ nào cũng luôn luôn chỉ nói lên cho các bạn cái luật “ phản phục , tiêu trưởng “ , nhắc ta câu “ Phúc hề hoạ chi sở phục , hoạ hề phúc chi sờ ỷ “ . Chỉ đường mở nẻo cho cái đạo “ tri tiến thoái , tồn vong nhi bất thất kì chánh “ như vừa nói trên đây .
Không 1 quẻ nào , dù Thái hay Bĩ , dù Ích hay Tổn , dù Kí Tế hay Vị Tế đều có cả những lời răn đe nhắn nhủ . Bất cứ 1 quẻ nào , hể dưới xấu thì trên tốt , dưới tốt thì trên xấu , không 1 quẻ nào hoàn toàn tốt hay hoàn toàn xấu .
&&&
Chú thích : có khi phải tụ mà không làm cho tụ . Có khi phải tán mà lại làm cho không tán , cũng đều sai với đạo Dịch , với chữ Thới . Cho nên tụ hay tán , tự nó không có cái nào hay hoặc dở cả.
&&&
Việc trong thiên hạ đại để đều như thế cả . Dụng ý của Thánh nhân thật là thâm diệu vô cùng . Dù ở thời nào , đứng ở cương vị nào , may hay rủi , không nên lạc quan mà cũng chẳng nên bi quan . Dịch giúp cho ta luôn luôn giữ được tinh thần điềm đạm .
Ngoài những điểm chánh kể trên , đọc Dịch cũng cần lưu ý đến những điểm không kém quan trọng sau đây .
1) Vật có cùng mới có biền , nhưng tiệm biến chứ không đột biến . Nghĩa là phải để ý đến luật tiêu trưởng . Phàm Âm tiêu thì Dương trưởng , Dương tiêu thì Âm trưởng . Thời Bĩ , Âm trưởng Dương tiêu , tức là lúc mà tiểu nhân thạnh , quân tử suy , người quân tử phải ẩn mới khỏi bị hại . “ Thiên địa bế , hiền nhân ẩn “ . Đó là đạo minh triết bảo thân của Dịch há riêng gì của nhóm Đạo gia ..
Hào Dương sinh ở quẻ Phục , đến lúc cực thịnh mới đến quẻ Kiền . Hào Âm sinh ở quẻ Cấu , đến lúc cực thịnh mới đến quẻ Khôn , phải đâu việc 1 sớm 1 chiều .”Tôi mà thí vua , con mà giết cha , nguyên do đâu phải 1 sớm 1 chiều , nó đã từ từ mà đến vậy . “ Cho nên việc gì cũng phải lo phòng bị ngay lúc đầu : phòng loạn hơn trị loạn .
Luật Tiêu trưởng do luật Phản phục , cho nên dịch không chủ trương Tiến mà nói Biến . Biến hoá giả , tiến thoái chi tượng . ( Biến hoá , chỉ là cái tượng của sự tiến rồi thối ) Ngày đi đêm tới ; đêm đến , ngày lui . Đó là bài học thứ 1 của Dịch , bàn về cái lẽ hợp tan , tan hợp .
&&&&
2) Âm Dương đắp đổi nhau mà có tác dụng , cho nên không có việc cô âm hay cô dương : Dương dĩ Âm vi cơ , Âm dĩ Dương vi xướng . ( Dương lấy Âm làm nền , Âm dựa theo Dương mà theo . Bởi Dương xướng Âm hoạ , nên không có việc lấy Dương mà trừ Âm , hay lấy Âm mà trừ Dương 1 cách tuyệt đối . Chỉ có việc dùng Dương hay Âm để ức chế lẫn nhau hầy lập lại quân bình như Lão Tử đã bảo : Thiên chi đạo , tổn hữu dư bổ bất túc .
Hễ Âm thịnh thì ức Âm phù Dương . Dương thịnh thì ức Dương phù Âm , chứ không bao giờ có cái việc đề cao cái này để phủ nhận cái kia , bất cứ là Thiện hay Ác . Dịch không phải là sách luân lý thông thường , cho nên không nói phải quấy mà chỉ nói lợi hại . Đối với Thiên Đạo , chẳng bao giờ âm dương thiếu 1 phía uấy ma22chi3 nói lợi hại giờ có cái việc đề cao cái này để phủ nhận cái kia , bất cứ là Thiện hay ác mà thành sự . Về nhân sự , chẳng bao giờ quân tử và tiểu nhân thiếu 1 bên mà thành việc . Quan hệ là do tiêu trưởng ở bên nào : dương trưởng âm tiêu thì thiên đạo đến hồi Thái , nhân sự thông . Trái lại , Âm trưởng Dương tiêu , thì thiên đạo đến cơn Bĩ , nhân sự bất thông ( bế ) .
Dịch lấy thiên đạo để hiểu nhân sự , tức là nói về cái lẽ “thiên nhân hợp nhất “ ,đạo người và đạo trời không rời nhau , luôn luôn tương thông tương hợp ăn khớp với nhau như 1 ( thiên nhân vi nhất ) . Đó là bài học thứ 2 của Dịch .( Thuận thiên giả tồn , nghịch thiên giả vong ) . Nhịp sống của con người phải hoà đồng cùng
nhịp sống của vũ trụ thiên nhiên . Nhân pháp Địa , Địa phápThiên , Thiên pháp Đạo , Đạo pháp tự nhiên .
&&&
3) Vì luật tiêu trưởng ,đọc Dịch cần lưu ý đến hào 4 ,5, 6 của thượng quái . Vì đó là lúc sự vật bắt đầu sang qua giai đoạn thịnh cực , có cùng cực mới có biến . Cái tốt đã bắt đầu tàng ẩn cái xấu , cái phúc đã bắt đầu ôm ấp cái hoạ . Từ Thái qua Bĩ cũng bắt đầu ở hào 4 . Từ Bĩ trở lại Thái cũng bắt đầu ở hào 4 . Cho nên hào 4 quẻ Bĩ trờ lên là gọi là Bĩ Cực , Bĩ Cực thì Thái Lai là vậy . Cần phải nhớ rằng : quẻ có quẻ nội ( nội quái ) và quẻ ngoại ( ngoại quái ).
Nội quái hay ngoại quái là để biểu hiện sự thành , thịnh , suy , huỷ ( hay thành , trụ , hoại , không ) của mọi sự vật . Nội quái biểu thị sự Thành Thịnh , thì ngoại quái biểu thị sự Suy Huỷ , và trái nghịch lại .
Phép nhìn Bát Quái đồ , phải bắt trong nhìn ra . Phần cận với trung cung là phần nội ( phần căn bản ); phần bên ngoài là phần ngoại , là phần ngọn . Nội vi chủ , ngoại vi khách . Ghi quẻ thì bắt dưới ghi lên , đọc quẻ thì bắt trên đọc xuống . Về con số trong Dịch , thì con số nhỏ là thiều thuộc về thời sinh , con số lớn ( tráng ) thuộc về thời trưởng . Con số lớn hơn hết ( lão ) là thời cực thịnh .
Cho nên con số 1 là mạnh nhất ở đồ tiên thiên bát quái , kế đó là số 3 , số 1 là thiếu dương , số 3 là thái dương . Số 2 là thiếu âm , số 4 là thái âm . Số 6 là lão âm , số 9 là lão dương .
Các quẻ vì vậy , nếu xấu ở phần đầu ( nội quái ) thì tốt ở phần sau ( ngoại quái ) ; tốt ở phần nội quái thì xấu ở phần ngoại quái . Bởi vậy , thắng chớ vội mừng , mà đại thắng phải lo , vì như Héraclite đã nói : những đại thắng là những đại bại . Thái quá bao giờ cũng nguy . Đó là bài học thứ 3 của Dịch . Thái cương tắc chiết ( hết sức cứng thì gẫy ) .
&&&
4) Dịch là tự nhiên , và dù là nhân vi cũng phải làm đúng theo tự nhiên . Ngay sự chống tự nhiên theo tự nhiên cũng là tự nhiên . Cho nên mới nói : Dịch dữ thiên địa chuẩn , và Hoạch tiền nguyên hữu Dịch .
&&& &
Chú thích : Cái gì đối nghịch nhất đối với Tự nhiên lại cũng còn là Tự nhiên . Kẻ nào không nhận thấy nó trong tất cả mọi khía cạnh , không thấy được nó đâu cả . Nghịch lại với tự nhiên cũng là tuân theo những quy luật của nó ; hành động theo nó khi ta muốn làm nghịch lại với nó . Thật là 1 nhận xét sâu sắc không khác gì nhận xét của Dịch .
Dịch lấy trời đất âm dương làm phép tắc .
Trước khi vạch ra quẻ , Dịch đã nằm sẵn trong tạo hoá .
&&&&
Nghĩa là Dịch không phải là luật lệ của con người chế tác , mà là những luật lệ tự nhiên của Tạo Hoá . Trước khi có Dịch , lý của Dịch đã nằm sẵn trong sự vật rồi . Lão Tử bảo : nhân pháp địa, địa pháp thiên , thiên pháp đạo , đạo pháp tự nhiên .
( Người theo đất , ( âm ) , đất theo trời ( dương) , trời theo Đạo , Đạo theo tự nhiên ) . Bởi vậy , muốn trở về với tự nhiên , với đạo , phải theo sự biến hoá của Âm Dương , phải : Tẩy tâm thối tàng ư mật . Phải ý thức rõ cái gì là thuộc về nhân vi để mà sống với nó nhưng không bị kẹt vào nó nữa , mới mong đi đến sự Phục kì Chân , mà sống huyền đồng với thiên nhiên tạo vật . Đó là bài học thứ 4 của Dịch .
&&&&
5) Nhìn trật tự của các quẻ trong Kinh Dịch , ta thấy từ các quẻ Kiền Khôn là đầu não các quẻ , ta phải trải qua 8 quẻ ( Truân , Mông , Nhụ , Sự , Tị , Tiểu Súc ,và Lí ) mới đến quẻ Thái là hanh thông . Nhưng khi vừa qua quẻ Thái , lại tiếp liền quẻ Bĩ , tức là bế tắc . Phải chăng đây là 1 chân lí mà Dịch muốn chỉ cho ta thấy : Thành rất khó mà bại vô cùng dễ dàng và mau lẹ . Như tảng đá to mà mà chàng Sisyphe phải luôn luôn đẩy lên đỉnh núi cao đễ rồi khi gần tới đỉnh lại rớt lăn trở về dưới vực . Một cực hình khổ sai chung thân , không phải riêng gì của chàng Sisyphe , mà là của toàn thể loài người .
Trước cái luật phản phục ấy , cái luật : vật cùng tắc phản , vật cực tắc biến , cái luật thịnh suy , bĩ thái ấy , thánh nhân ngày xưa khuyên khéo ta : Ôm giữ chậu đầy , chi bằng thôi đi . Dùng dao sắc bén , bén không bền lâu . Vàng ngọc đầy nhà , khó mà giữ lâu . Giàu sang mà kiêu , tự vời hoạ ưu . Nên việc lui thân , đó là đạo trời .
Cũng như trong hệ từ cũng có căn dặn : Quân tử an nhi bất vong nguy , tồn nhi bất vong vong , trị nhi bất vong loạn . Thị dĩ thân an nhi quốc gia khả bảo .
&&&&&&
Chú thích : Sisyphe , con của Eole và là vua xứ Corinthe , sau khi chết , bị đày phải đẩy 1 tảng đá to lên đỉnh núi cao , nhưng trước khi tới đỉnh thì tảng đà lăn trở xuống . Sisyphe phải đẩy lại như trước … luôn luôn suốt đời .
&&&&&&&
Ghi nhận : bây giờ , vì cuộc sống quá vội vàng hấp tấp , nên không ai hiểu Kinh Dịch , hoặc cùng lắm chỉ học thuộc lòng như con vẹt . Nhưng không áp dụng và hiểu đúng !
Hơn nữa , vì thanh niên hiểu Dịch là biến đổi , nên tự bảo : ta đây cũng biến đổi hàng ngày , nhẩy hip hop , nhạc rap rock lung tung , vậy đó là Dịch ? Quần áo cũng thay đổi chóng mặt , và nhất là thay đổi vợ chồng như thay áo , đây cũng là Dịch ?
Có phải Dịch như thế không ?
Nhưng Dịch là trong Phúc có Họa , và trong Họa có Phúc . Hay là Thái tới Bĩ , và Bĩ tới Thái , đó là thay đổi 2 chiều . Chứ không phải thay đổi vật chất thông thường !
Vì vậy trên 50 tuổi chưa chắc đọc Dịch được ! Chứ không phải 50 tuổi biết Dịch ?
Có người cả đời không hiểu Dịch , Có vậy thôi ! Chữ Dịch nghĩa lả dễ , nhưng ngược lại rất khó ! Thế nên mới thất truyền …
Tôi mong muốn giới thiệu cho mọi người về Kinh Dịch , 1 cuốn sách tối cổ của Nhân Loại …Nhưng có lẽ đây là 1 việc Dã tràng xe cát biển đông chăng ? Vì Dịch là tự nhiên , không phải muốn là được ! Không phải ép đọc là hiểu …
Lâm Ngữ Đường nói : đọc sách phải tiêu hoá , nghĩa là hiểu . Nếu không nó là chất độc huỷ hoại tâm hồn ta .Tẩu hoả nhập ma !
&&&&&&
Chủ Nhật, 30 tháng 9, 2007
Thứ Sáu, 28 tháng 9, 2007
Kinh Dịch lời nói đầu 3
DỊCH HỌC TINH HOA – THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN.
LỜI NÓI ĐẦU ( 3 ) :
6) Dịch chia làm 2 phần : thượng kinh và hạ kinh . Thượng kinh là những nguyên lý nói về Vũ trụ CẦN., lấy 2 quẻ đầu Kiền và Khôn , tượng trưng 2 khí Âm Dương bàn về lẽ trời . Hạ kinh khởi bằng 2 quẻ Hàm Hằng nói về đạo người , bắt đầu là đạo vợ chồng . Nhưng lúc giao tiếp 2 phần Vũ trụ và Nhân sinh , cuối phần Thượng kinh thì lại để 2 quẻ Khảm Li , là tại sao ?
Như ta đã biết Kiền Khôn là 2 quẻ thuần Dương và thuần Âm , nó là Thể , thuộc phần Tiên Thiên . Li Khảm là 2 quẻ có cả Âm Dương nằm trong , tức là Dương trung hữu Âm căn , Âm trung hữu Dương căn . Kiền Khôn chỉ là Lưỡng Nghi , Li Khảm mới là Tứ Tượng , mới có được cái dụng của Âm Dương . Quẻ Li chứa hào âm trong lòng . Quẻ Khảm chứa hào Âm trong lòng . Cho nên mới bảo 2 quẻ ấy là 2 quẻ “ đắc thiên địa chi trung “ cầm đầu cho các quẻ bàn về nhân sự ở hạ kinh .
Đến phần cuối cùng của hạ kinh , tức là nói đến phần chung kết của mọi sự vật , thì sao lại để 2 quẻ Kí Tế và Vị tế ? Là vì 2 quẻ này mới nói lên rõ rệt công dụng của 2 quẻ Khảm Li : Thuỷ Hoả Kí Tế và Hỏa Thủy Vị Tế .
Nhưng tại sao chấm dứt Kinh Dịch không để quẻ Kí Tế mà lại để quẻ Vị Tế ? Kí Tế là đã xong ; Vị Tế là chưa xong , cái gì đã xong thì là việc đã đến chỗ cùng tận , mà Dịch là biến , nếu lại có sự cùng tận thì sao có thể còn được gọi là Dịch nữa ?
Dịch không có chỗ cùng . Không có chỗ cùng , tức là chỗ nhà Thiền gọi là “ Ưng vô sở trụ “ còn Trang thì gọi là “ Vô hà hữu chi hương “ . Dịch chung cuộc là Hư Vô , là Thái Cực . Bởi vậy , học Dịch phải tìm cái Vô hạn , trong cái Hữu hạn . Đó là bài học thứ 6 của Dịch .
&&&&&&
Học Dịch rất cần nghiên cứu về vấn đề Tiên Thiên Hậu Thiên của Hà Đồ và Lạc Thư . Đó là để học cái đạo “ Nội Thánh Ngoại Vương “ rõ được cái thể và cái dụng của Dịch . Hai phần này liên đới bổ túc nhau để hoàn thành cái đạo xuất xử bất cứ ở trường hợp nào . Hà Đồ rất quan trọng trong cái đạo tu thân giải thoát . Lạc Thư rất quan trọng cho cái đạo xử thế “ Khai vật thành vụ “ và Tu , Tề , Trị , Bình .
Phần Lạc Thư vì vậy , chúng tôi sẽ dành cho nó riêng trong 1 quyển sách sau này để bàn về số học trong các khoa huyền bí chiêm nghiệm , nhan đề Đạo giáo đã được dự thảo từ lâu , và nay cũng đang sắp hoàn thành .
( sách này in 1969 - bây giờ 2007 ,gần 40 năm )
&&&&&&
Đó là những điều tạm xem là căn bản của Dịch , có thể vừa đủ để đi vào Kinh Dịch , mặc dù cũng còn rất nhiều chi tiết không kém quan trọng . Sau này , khi đi vào chi tiết của từng Hào , từng Quẻ sẽ lần lần nêu ra trong quyển Chu Dịch Huyền Giải , sắp được xuất bản nay mai nếu có phương tiện . Cái khó của Kinh Dịch , chẳng những ở những tư tưởng cô đọng vi huyền , lại còn ở văn tự . Văn tự Kinh Dịch là thứ văn tự đời Ân Chu , cho nên nghĩa chữ không thể dùng nghĩa chữ đời nay mà giải thích và hiểu biết .
Nếu lại không thông cổ tự , không rõ lễ chế của nền văn hoá cổ đại Trung Hoa cũng không làm sao giải nổi Kinh Dịch . Chúng tôi đã bỏ rất nhiều công phu trong việc nghiên cứu , nhưng bao giớ cũng thấy còn rất nhiều thiếu sót . Vì vậy đã bèn lâu không dám cho in, dù bản thảo đã viết xong cách đây có 30 năm . Hôm nay vì có nhiều bạn thanh niên đốc thúc , hoàn cảnh bắt buộc , chúng tôi liều lĩnh cho ra , với lòng mong ước sẽ được những bậc cao nhân chỉ giáo . ( tính tới bây giờ là 70 năm)
&&&&&&
Các bạn không nên tin rằng , sau khi đọc xong tập sách đại cương này , các bạn sẽ hiểu được tât cả những khoa áp dụng Dịch lí . Biết được đại cương những nguyên lí chung của Kinh Dịch là 1 việc , mà biết áp dụng nó trong các khoa lấy nó làm căn bản , lại là 1 việc khác ; Không còn dễ dàng như có nhiều người đã nghĩ . Đối với người Đông Phương ,Tri mà không Hành chưa phải là Chân Tri . Triết học Đông phương là 1 đạo sống .
Theo kinh nghiệm bản thân , chúng tôi nhận thấy có 2 cách nghiên cứu và học Dịch . Đây chỉ là vấn đề kinh nghiệm bản thân , chưa ắt có lợi cho người khác . Nhưng dù sao xin cứ thành thật trình bày gọi là góp thêm ý kiến . Hai cách học Dịch : 1 , là khởi từ trong mà ra ngoài ; 2 , là bắt từ ngoài mà vào trong . Cách thử 2 , tốn nhiều công nhưng thiết thực hơn .
Đành rằng đọc Dịch và học Dịch là phải đi ngay vào Dịch , đi ngay vào Kinh mà không nên đi ngay vào Truyện hay những sách bình giải về kinh Dịch , nhưng đó là phần của các bậc Thánh . Chúng ta với đầu óc bình thường không thể theo đường lối ấy , mặc dù sau cùng cũng phải quên nó để hiểu nó .
Chúng ta nên theo phương pháp thứ 2 là nghiên cứu nó song song với 1 bộ môn áp dụng nó như chánh trị , xã hội , tu thân xử thế , tâm lí , luận lí , địa lí , thiên văn và ngay cả những khoa mà nhà khoa học dè dặt ngày nay gọi là khoa học huyền bí , chỉ vì họ chưa hiểu rõ lí do bí hiểm của nó . Hoặc , các bạn nên tạo trước cho mình 1 hứng thú để cho sự nghiên cứu về Dịch không còn là 1 cái học khô khan trừu tượng nữa .
Chúng tôi muốn nói : các bạn cứ đi ngay vào 1 trong những môn học dùng Dịch làm nguyên tắc . Thuở nhỏ chúng tôi rất thích đọc sách của Trang Lão . Rối từ Trang Lão chúng tôi lại đi lần vào Đạo Giáo . Nhưng rồi càng ngày chúng tôi càng thấy mình hoang mang lạc lõng vì chúng tôi chưa hiểu gì cả đến thuyết Âm Dương . Âm Dương là căn bản của Đạo Giáo . Bấy giớ mới thấy cái học của mình thiếu căn bản : thiếu Dịch .
Đó là vì chúng tôi đi từ ngoài vào trong , tuy nhiên chính muốn hiểu Lão Trang mà phải cố công trì chí học Dịch không chán nản . Học Dịch bấy giờ không còn thấy khó nữa , nhờ sự hứng thú thích đọc Lão Trang nuôi được chí kiên nhẫn học cho kì được Dịch Kinh . Một sự may mắn khác ( không rõ có phải là may hay chẳng may ) , khi đang nghiên cứu Đạo Giáo , về những cái học chiêm nghiệm như Y , Bốc , Tinh , Tướng và ma thuật , chúng tôi gặp được thầy hay . Thấy chúng tôi , thực sự là cha nuôi của chúng tôi , 1 giang Đạo Sĩ khét tiếng miền Hậu Giang ( Long Xuyên ) rất thông Y Thuật .
Y thuật Đông phương đối với chúng tôi bấy giờ là 1 cái học hấp dẫn vô cùng . Lần này chúng tôi mới khám phá ra rằng Thầy chúng tôi cũng tinh thông cả Tiên Thuật . Bấy giờ mới rõ được câu này trong Nội Kinh : “ Y Đạo thông Tiên Đạo “ . Chúng tôi mới nhận thấy lời khuyên này của J . Lavier trong quyển Les Secrets du Yi King , là đúng . Phải có biết trước ít nhiều về Đạo Giáo mới có thể đọc , nhất là nghiên cứu và khai thác Dịch Kinh . Từ khi chúng tôi được bí truyền về những khoa Nhâm , Cầm , Độn , Giáp chúng tôi đọc Dịch thấy càng thêm hứng thú lạ , và sự hiểu biết của chúng tôi cả 2 bên càng ngày càng thêm tăng tiến mau lẹ .
Có 1 vài bạn thân chế nhạo chúng tôi sao lại học chi những khoa huyền bí mà họ đồng hoá với sự mê tín dị đoan . Thú thật , hiện giờ chúng tôi không còn mặc cảm gì nữa đối với các thứ học ấy . Trước hết óc tò mò của chúng tôi quá mạnh , không còn có 1 hiện tượng nào lạ xẩy ra trước mắt mà làm cho chúng tôi thản nhiên được . Và kế đó chúng tôi muốn thành thật với mình . Chúng tôi tin rằng : người mà hay thắc mắc đặt nhiều câu hỏi quá , có thể giống như người đần độn , nhưng mà kẻ suốt đời không bao giờ biết ngạc nhiên và đặt câu hỏi , kẻ ấy đành chịu làm kẻ đần độn suốt đời .
Tôi cho lới nói này của Albert Einstien rất xác đáng : Người mà không quen cảm thông với sự huyền bí , đã mất cả cái quan năng biết ngạc nhiên , biết say đắm trong nền tôn kính trước những sự huyền bí , con người ấy kể như 1 con người đã chết rồi . Huống chi với tình trạng khoa học tiến bộ mau lẹ gần như vượt bực ngày nay , kẻ nào còn nhân danh khoa học để miệt thị các khoa huyền bí là mê tín dị đoan , chính họ mới là lạc hậu , còn hơn những người mà họ cười là lạc hậu . Tôi cho rằng lời nhận xét này của bác sĩ Jules Régnault rất đáng nghiền ngẫm : Khoa học ngày nay phải chăng là 1 thứ huyền bí học bị lột bộ mặt huyền bí của nó .
&&&&&&
Dù sao , phần triết lí phải là phần chính của Dịch học , các môn học khác rồi sẽ đều là phù phiếm hay phụ thuộc . Sau khi đã dùng các môn học áp dụng Dịch để chiêm nghiệm ý nghĩa huyền bí của Dịch , lâu ngày chúng tôi đã bỏ lần các môn học phụ ấy , mà chỉ giữ lại phần tinh tuý là đạo tu thân xử thế tức là cái đạo Nội thánh ngoại Vương , theo Trang Lão .
Dịch là 1 bộ sách đa diện và vô tận , sau 1 thời gian khá lâu chúng tôi đã sống với nó trong từng hơi thở “ nhật dụng thường hành “ , thế mà vẫn thấy nó vòi vọi như non cao ; qua được đỉnh này lại thấy hiện ra sừng sững trước mặt trùng trùng nhiều đỉnh khác … Phải có sống nhiều , đọc Dịch mới thấy thú .
Lâm Ngữ Đường nói : Khổng Tử dặn : 50 tuổi có thể đọc được Kinh Dịch , tức là muốn nói , 45 tuổi cũng còn chưa thể đọc Kinh Dịch được . Phan Sào Nam về già mới nghiên cứu nổi Kinh Dịch .
Lão Tử bảo rất đúng : “ Thệ viết viễn , viễn viết phản “ . Tràn khắp là đi xa , đi xa là trở về . Cho nên học Dịch mà tán ra xa , thì xa mãi không bao giờ hết , càng ngày càng thêm phức tạp , có khi rồi lại quên gốc vì quá mải miết theo cái học trục vật . Cần phải biết đủ mà dừng lại ( tri túc tri chỉ ) , để mà trở về .
Đó là cứu cánh mục đích của những người học Đạo . Phần này chúng tôi đã trình trong quyển “ Tinh hoa Đạo học Đông phương “ . Biết đến cái đạo đi về , nên Dịch mới gọi là Dị ( dễ ) . Thật vậy , Dịch rất đơn giản , rất dễ dàng . Chỉ gồm trong 1 cái đồ , gọi là đồ Thái Cực , 1 cái hình tròn với 2 nghi đen trắng ôm ngoàm nhau 1 cách đồng đều , tượng trưng luật quân bình . Thật là tài tình .
Nhìn đồ Thái Cực ta thấy rõ cái Đạo đi ra ( thệ ) và cái Đạo đi về ( phản ) . Đạo đi ra bắt đầu từ Thái Cực qua Lưỡng Nghi , Tứ Tượng , Bát Quái . Còn Đạo đi về bắt từ Lưỡng Nghi trở về Thái Cực hay Thái Nhất . Đi ra là Đạo Nhị Nguyên . trở về là Đạo Nhất Nguyên . Có đi ra , rồi lại có đi về mới hoàn thành được trọn vẹn cái gọi là Nhất Âm nhất Dương chi vị Đạo .
Câu Các Hữu Thái Cực tóm được cái đạo Nhất Nguyên , con đường cuối cùng cuối mà cũng là Tinh Hoa Dịch Học .Dịch là Nhất Nguyên Luận . Ngày xưa Dương Quí Sơn đến thămThiêm Quí Lỗ . Quí Sơn hỏi Quí Lỗ về Kinh Dịch , Quí Sơn lấy 1 tờ giấy trắng , vẽ 1 cái vòng tròn , lấy mực bôi đen lên 1 nửa , cười bảo : đó là
Dịch .
&&&&&&&
LỜI NÓI ĐẦU ( 3 ) :
6) Dịch chia làm 2 phần : thượng kinh và hạ kinh . Thượng kinh là những nguyên lý nói về Vũ trụ CẦN., lấy 2 quẻ đầu Kiền và Khôn , tượng trưng 2 khí Âm Dương bàn về lẽ trời . Hạ kinh khởi bằng 2 quẻ Hàm Hằng nói về đạo người , bắt đầu là đạo vợ chồng . Nhưng lúc giao tiếp 2 phần Vũ trụ và Nhân sinh , cuối phần Thượng kinh thì lại để 2 quẻ Khảm Li , là tại sao ?
Như ta đã biết Kiền Khôn là 2 quẻ thuần Dương và thuần Âm , nó là Thể , thuộc phần Tiên Thiên . Li Khảm là 2 quẻ có cả Âm Dương nằm trong , tức là Dương trung hữu Âm căn , Âm trung hữu Dương căn . Kiền Khôn chỉ là Lưỡng Nghi , Li Khảm mới là Tứ Tượng , mới có được cái dụng của Âm Dương . Quẻ Li chứa hào âm trong lòng . Quẻ Khảm chứa hào Âm trong lòng . Cho nên mới bảo 2 quẻ ấy là 2 quẻ “ đắc thiên địa chi trung “ cầm đầu cho các quẻ bàn về nhân sự ở hạ kinh .
Đến phần cuối cùng của hạ kinh , tức là nói đến phần chung kết của mọi sự vật , thì sao lại để 2 quẻ Kí Tế và Vị tế ? Là vì 2 quẻ này mới nói lên rõ rệt công dụng của 2 quẻ Khảm Li : Thuỷ Hoả Kí Tế và Hỏa Thủy Vị Tế .
Nhưng tại sao chấm dứt Kinh Dịch không để quẻ Kí Tế mà lại để quẻ Vị Tế ? Kí Tế là đã xong ; Vị Tế là chưa xong , cái gì đã xong thì là việc đã đến chỗ cùng tận , mà Dịch là biến , nếu lại có sự cùng tận thì sao có thể còn được gọi là Dịch nữa ?
Dịch không có chỗ cùng . Không có chỗ cùng , tức là chỗ nhà Thiền gọi là “ Ưng vô sở trụ “ còn Trang thì gọi là “ Vô hà hữu chi hương “ . Dịch chung cuộc là Hư Vô , là Thái Cực . Bởi vậy , học Dịch phải tìm cái Vô hạn , trong cái Hữu hạn . Đó là bài học thứ 6 của Dịch .
&&&&&&
Học Dịch rất cần nghiên cứu về vấn đề Tiên Thiên Hậu Thiên của Hà Đồ và Lạc Thư . Đó là để học cái đạo “ Nội Thánh Ngoại Vương “ rõ được cái thể và cái dụng của Dịch . Hai phần này liên đới bổ túc nhau để hoàn thành cái đạo xuất xử bất cứ ở trường hợp nào . Hà Đồ rất quan trọng trong cái đạo tu thân giải thoát . Lạc Thư rất quan trọng cho cái đạo xử thế “ Khai vật thành vụ “ và Tu , Tề , Trị , Bình .
Phần Lạc Thư vì vậy , chúng tôi sẽ dành cho nó riêng trong 1 quyển sách sau này để bàn về số học trong các khoa huyền bí chiêm nghiệm , nhan đề Đạo giáo đã được dự thảo từ lâu , và nay cũng đang sắp hoàn thành .
( sách này in 1969 - bây giờ 2007 ,gần 40 năm )
&&&&&&
Đó là những điều tạm xem là căn bản của Dịch , có thể vừa đủ để đi vào Kinh Dịch , mặc dù cũng còn rất nhiều chi tiết không kém quan trọng . Sau này , khi đi vào chi tiết của từng Hào , từng Quẻ sẽ lần lần nêu ra trong quyển Chu Dịch Huyền Giải , sắp được xuất bản nay mai nếu có phương tiện . Cái khó của Kinh Dịch , chẳng những ở những tư tưởng cô đọng vi huyền , lại còn ở văn tự . Văn tự Kinh Dịch là thứ văn tự đời Ân Chu , cho nên nghĩa chữ không thể dùng nghĩa chữ đời nay mà giải thích và hiểu biết .
Nếu lại không thông cổ tự , không rõ lễ chế của nền văn hoá cổ đại Trung Hoa cũng không làm sao giải nổi Kinh Dịch . Chúng tôi đã bỏ rất nhiều công phu trong việc nghiên cứu , nhưng bao giớ cũng thấy còn rất nhiều thiếu sót . Vì vậy đã bèn lâu không dám cho in, dù bản thảo đã viết xong cách đây có 30 năm . Hôm nay vì có nhiều bạn thanh niên đốc thúc , hoàn cảnh bắt buộc , chúng tôi liều lĩnh cho ra , với lòng mong ước sẽ được những bậc cao nhân chỉ giáo . ( tính tới bây giờ là 70 năm)
&&&&&&
Các bạn không nên tin rằng , sau khi đọc xong tập sách đại cương này , các bạn sẽ hiểu được tât cả những khoa áp dụng Dịch lí . Biết được đại cương những nguyên lí chung của Kinh Dịch là 1 việc , mà biết áp dụng nó trong các khoa lấy nó làm căn bản , lại là 1 việc khác ; Không còn dễ dàng như có nhiều người đã nghĩ . Đối với người Đông Phương ,Tri mà không Hành chưa phải là Chân Tri . Triết học Đông phương là 1 đạo sống .
Theo kinh nghiệm bản thân , chúng tôi nhận thấy có 2 cách nghiên cứu và học Dịch . Đây chỉ là vấn đề kinh nghiệm bản thân , chưa ắt có lợi cho người khác . Nhưng dù sao xin cứ thành thật trình bày gọi là góp thêm ý kiến . Hai cách học Dịch : 1 , là khởi từ trong mà ra ngoài ; 2 , là bắt từ ngoài mà vào trong . Cách thử 2 , tốn nhiều công nhưng thiết thực hơn .
Đành rằng đọc Dịch và học Dịch là phải đi ngay vào Dịch , đi ngay vào Kinh mà không nên đi ngay vào Truyện hay những sách bình giải về kinh Dịch , nhưng đó là phần của các bậc Thánh . Chúng ta với đầu óc bình thường không thể theo đường lối ấy , mặc dù sau cùng cũng phải quên nó để hiểu nó .
Chúng ta nên theo phương pháp thứ 2 là nghiên cứu nó song song với 1 bộ môn áp dụng nó như chánh trị , xã hội , tu thân xử thế , tâm lí , luận lí , địa lí , thiên văn và ngay cả những khoa mà nhà khoa học dè dặt ngày nay gọi là khoa học huyền bí , chỉ vì họ chưa hiểu rõ lí do bí hiểm của nó . Hoặc , các bạn nên tạo trước cho mình 1 hứng thú để cho sự nghiên cứu về Dịch không còn là 1 cái học khô khan trừu tượng nữa .
Chúng tôi muốn nói : các bạn cứ đi ngay vào 1 trong những môn học dùng Dịch làm nguyên tắc . Thuở nhỏ chúng tôi rất thích đọc sách của Trang Lão . Rối từ Trang Lão chúng tôi lại đi lần vào Đạo Giáo . Nhưng rồi càng ngày chúng tôi càng thấy mình hoang mang lạc lõng vì chúng tôi chưa hiểu gì cả đến thuyết Âm Dương . Âm Dương là căn bản của Đạo Giáo . Bấy giớ mới thấy cái học của mình thiếu căn bản : thiếu Dịch .
Đó là vì chúng tôi đi từ ngoài vào trong , tuy nhiên chính muốn hiểu Lão Trang mà phải cố công trì chí học Dịch không chán nản . Học Dịch bấy giờ không còn thấy khó nữa , nhờ sự hứng thú thích đọc Lão Trang nuôi được chí kiên nhẫn học cho kì được Dịch Kinh . Một sự may mắn khác ( không rõ có phải là may hay chẳng may ) , khi đang nghiên cứu Đạo Giáo , về những cái học chiêm nghiệm như Y , Bốc , Tinh , Tướng và ma thuật , chúng tôi gặp được thầy hay . Thấy chúng tôi , thực sự là cha nuôi của chúng tôi , 1 giang Đạo Sĩ khét tiếng miền Hậu Giang ( Long Xuyên ) rất thông Y Thuật .
Y thuật Đông phương đối với chúng tôi bấy giờ là 1 cái học hấp dẫn vô cùng . Lần này chúng tôi mới khám phá ra rằng Thầy chúng tôi cũng tinh thông cả Tiên Thuật . Bấy giờ mới rõ được câu này trong Nội Kinh : “ Y Đạo thông Tiên Đạo “ . Chúng tôi mới nhận thấy lời khuyên này của J . Lavier trong quyển Les Secrets du Yi King , là đúng . Phải có biết trước ít nhiều về Đạo Giáo mới có thể đọc , nhất là nghiên cứu và khai thác Dịch Kinh . Từ khi chúng tôi được bí truyền về những khoa Nhâm , Cầm , Độn , Giáp chúng tôi đọc Dịch thấy càng thêm hứng thú lạ , và sự hiểu biết của chúng tôi cả 2 bên càng ngày càng thêm tăng tiến mau lẹ .
Có 1 vài bạn thân chế nhạo chúng tôi sao lại học chi những khoa huyền bí mà họ đồng hoá với sự mê tín dị đoan . Thú thật , hiện giờ chúng tôi không còn mặc cảm gì nữa đối với các thứ học ấy . Trước hết óc tò mò của chúng tôi quá mạnh , không còn có 1 hiện tượng nào lạ xẩy ra trước mắt mà làm cho chúng tôi thản nhiên được . Và kế đó chúng tôi muốn thành thật với mình . Chúng tôi tin rằng : người mà hay thắc mắc đặt nhiều câu hỏi quá , có thể giống như người đần độn , nhưng mà kẻ suốt đời không bao giờ biết ngạc nhiên và đặt câu hỏi , kẻ ấy đành chịu làm kẻ đần độn suốt đời .
Tôi cho lới nói này của Albert Einstien rất xác đáng : Người mà không quen cảm thông với sự huyền bí , đã mất cả cái quan năng biết ngạc nhiên , biết say đắm trong nền tôn kính trước những sự huyền bí , con người ấy kể như 1 con người đã chết rồi . Huống chi với tình trạng khoa học tiến bộ mau lẹ gần như vượt bực ngày nay , kẻ nào còn nhân danh khoa học để miệt thị các khoa huyền bí là mê tín dị đoan , chính họ mới là lạc hậu , còn hơn những người mà họ cười là lạc hậu . Tôi cho rằng lời nhận xét này của bác sĩ Jules Régnault rất đáng nghiền ngẫm : Khoa học ngày nay phải chăng là 1 thứ huyền bí học bị lột bộ mặt huyền bí của nó .
&&&&&&
Dù sao , phần triết lí phải là phần chính của Dịch học , các môn học khác rồi sẽ đều là phù phiếm hay phụ thuộc . Sau khi đã dùng các môn học áp dụng Dịch để chiêm nghiệm ý nghĩa huyền bí của Dịch , lâu ngày chúng tôi đã bỏ lần các môn học phụ ấy , mà chỉ giữ lại phần tinh tuý là đạo tu thân xử thế tức là cái đạo Nội thánh ngoại Vương , theo Trang Lão .
Dịch là 1 bộ sách đa diện và vô tận , sau 1 thời gian khá lâu chúng tôi đã sống với nó trong từng hơi thở “ nhật dụng thường hành “ , thế mà vẫn thấy nó vòi vọi như non cao ; qua được đỉnh này lại thấy hiện ra sừng sững trước mặt trùng trùng nhiều đỉnh khác … Phải có sống nhiều , đọc Dịch mới thấy thú .
Lâm Ngữ Đường nói : Khổng Tử dặn : 50 tuổi có thể đọc được Kinh Dịch , tức là muốn nói , 45 tuổi cũng còn chưa thể đọc Kinh Dịch được . Phan Sào Nam về già mới nghiên cứu nổi Kinh Dịch .
Lão Tử bảo rất đúng : “ Thệ viết viễn , viễn viết phản “ . Tràn khắp là đi xa , đi xa là trở về . Cho nên học Dịch mà tán ra xa , thì xa mãi không bao giờ hết , càng ngày càng thêm phức tạp , có khi rồi lại quên gốc vì quá mải miết theo cái học trục vật . Cần phải biết đủ mà dừng lại ( tri túc tri chỉ ) , để mà trở về .
Đó là cứu cánh mục đích của những người học Đạo . Phần này chúng tôi đã trình trong quyển “ Tinh hoa Đạo học Đông phương “ . Biết đến cái đạo đi về , nên Dịch mới gọi là Dị ( dễ ) . Thật vậy , Dịch rất đơn giản , rất dễ dàng . Chỉ gồm trong 1 cái đồ , gọi là đồ Thái Cực , 1 cái hình tròn với 2 nghi đen trắng ôm ngoàm nhau 1 cách đồng đều , tượng trưng luật quân bình . Thật là tài tình .
Nhìn đồ Thái Cực ta thấy rõ cái Đạo đi ra ( thệ ) và cái Đạo đi về ( phản ) . Đạo đi ra bắt đầu từ Thái Cực qua Lưỡng Nghi , Tứ Tượng , Bát Quái . Còn Đạo đi về bắt từ Lưỡng Nghi trở về Thái Cực hay Thái Nhất . Đi ra là Đạo Nhị Nguyên . trở về là Đạo Nhất Nguyên . Có đi ra , rồi lại có đi về mới hoàn thành được trọn vẹn cái gọi là Nhất Âm nhất Dương chi vị Đạo .
Câu Các Hữu Thái Cực tóm được cái đạo Nhất Nguyên , con đường cuối cùng cuối mà cũng là Tinh Hoa Dịch Học .Dịch là Nhất Nguyên Luận . Ngày xưa Dương Quí Sơn đến thămThiêm Quí Lỗ . Quí Sơn hỏi Quí Lỗ về Kinh Dịch , Quí Sơn lấy 1 tờ giấy trắng , vẽ 1 cái vòng tròn , lấy mực bôi đen lên 1 nửa , cười bảo : đó là
Dịch .
&&&&&&&
Thứ Tư, 26 tháng 9, 2007
mỗi ngày 1 mơ ước
Nạn nhân mãn đồng nghĩa với chủ nghĩa bành trướng đất đai .
Theo báo chí , Trung Quốc trong 30 năm hạn chề sinh đẻ , đã bớt được khoảng 400 triệu dân ?
Thật kinh khủng ! Nều không hạn chế , chỉ cần 30 năm , T Q dùng số người này , xâm chiếm VN thành 1 tỉnh của TQ . Với dân số trên 80 triệu , VN sẽ thua là cái chắc . TQ chỉ cần hy sinh 1 nửa số người này ( 200 triệu ) ,dùng biển người , tấn công 4 phía .
Phía Bắc đánh trực diện , phía Tây qua ngả Lào , Campuchia . Phía Đông và Nam cho tầu thuyền ồ ạt đổ bộ từ Mũi Cà Mâu đến Quảng Ninh …
VN không còn đường thoát , phải đầu hàng vô điều kiện .
Và bị nô lệ lần thứ 3 . Ngoại quốc không thể cứu viện được vì sợ TQ …
Nguy hiểm quá !
&&&&&&
Bởi thế , trên thế giới nên bắt buộc ,1 gia đình chỉ có 1 con mà thôi . Sau đó bắt buộc phải kế hoạch . Mở trường Y Khoa chuyên về triệt sản ở khắp nơi trên thế giới .
Sau khi có 1 con , tất phải triệt sản , Ai không nghe theo sẽ bị nhốt tù …
Có như thế ,quả đất chúng ta mới có cơ may sống sót . Không bị nạn ô nhiễm , chiến tranh , đói nghèo , khổ sở .
Phải cứu lấy trái đất của chúng ta !
&&&&&&
Những nước đông dân , khó trở thành cường quốc , bởi thế cho nên , không nên sinh đẻ nhiều . cho dù gia đình giàu có . Bởi xét theo thế giới , nên giảm bớt nhân số .
Không thể nào kiếm việc làm và lương thực cho hơn 8 tỉ người trên thế giới . Những nước giàu có , thì vô cùng phí phạm , vật chất , thuốc men và lương thực xài không hết bỏ đi rất uổng . Đốt bỏ hay cho gia súc ăn , xe cộ xài chưa hỏng đã đập bỏ . Trong khi đó 3 / 4 số dân thế giới đang đói rách .
Và khoa học kỹ thuật lại thiên về chế tạo vũ khí huỷ diệt , vi trùng và chất độc . Cùng những chất thải độc hại mà thế giới nghèo đói phải lãnh đủ . Rác công nghiệp cũng đổ xuống các nước những dân nghèo hèn này .
Và chiến tranh cùng sự thất nghiệp đưa trái đất tới chỗ diệt vong . Gia nhập đội ngũ lính ,giết hại lẫn nhau , khủng bố nhau .
&&&&&&
Dân buôn bán vũ khí làm giàu trên sinh mạng con người ! Phải phá hủy vũ khí , bom đạn … Cho đến khi nào trên trái đất không còn tiếng súng , tiếng bom … mới thôi.
Thì lúc đó mọi người mới có thể bắt tay nhau xây dựng 1 thề giới hạnh phúc ấm no . Kỹ nghệ tập trung vào sản xuất lương thực , vật chất máy móc … chăn nuôi trồng trọt đủ thứ …
Tại sao không làm được ? Dẹp bỏ tư tưởng xâm lăng . chiếm đoạt , ngồi không mà hưởng ! Dẹp bỏ tư tưởng bóc lột . Tư tưởng làm
giàu !
Than ôi , làm người khó !
&&&&&&
Theo báo chí , Trung Quốc trong 30 năm hạn chề sinh đẻ , đã bớt được khoảng 400 triệu dân ?
Thật kinh khủng ! Nều không hạn chế , chỉ cần 30 năm , T Q dùng số người này , xâm chiếm VN thành 1 tỉnh của TQ . Với dân số trên 80 triệu , VN sẽ thua là cái chắc . TQ chỉ cần hy sinh 1 nửa số người này ( 200 triệu ) ,dùng biển người , tấn công 4 phía .
Phía Bắc đánh trực diện , phía Tây qua ngả Lào , Campuchia . Phía Đông và Nam cho tầu thuyền ồ ạt đổ bộ từ Mũi Cà Mâu đến Quảng Ninh …
VN không còn đường thoát , phải đầu hàng vô điều kiện .
Và bị nô lệ lần thứ 3 . Ngoại quốc không thể cứu viện được vì sợ TQ …
Nguy hiểm quá !
&&&&&&
Bởi thế , trên thế giới nên bắt buộc ,1 gia đình chỉ có 1 con mà thôi . Sau đó bắt buộc phải kế hoạch . Mở trường Y Khoa chuyên về triệt sản ở khắp nơi trên thế giới .
Sau khi có 1 con , tất phải triệt sản , Ai không nghe theo sẽ bị nhốt tù …
Có như thế ,quả đất chúng ta mới có cơ may sống sót . Không bị nạn ô nhiễm , chiến tranh , đói nghèo , khổ sở .
Phải cứu lấy trái đất của chúng ta !
&&&&&&
Những nước đông dân , khó trở thành cường quốc , bởi thế cho nên , không nên sinh đẻ nhiều . cho dù gia đình giàu có . Bởi xét theo thế giới , nên giảm bớt nhân số .
Không thể nào kiếm việc làm và lương thực cho hơn 8 tỉ người trên thế giới . Những nước giàu có , thì vô cùng phí phạm , vật chất , thuốc men và lương thực xài không hết bỏ đi rất uổng . Đốt bỏ hay cho gia súc ăn , xe cộ xài chưa hỏng đã đập bỏ . Trong khi đó 3 / 4 số dân thế giới đang đói rách .
Và khoa học kỹ thuật lại thiên về chế tạo vũ khí huỷ diệt , vi trùng và chất độc . Cùng những chất thải độc hại mà thế giới nghèo đói phải lãnh đủ . Rác công nghiệp cũng đổ xuống các nước những dân nghèo hèn này .
Và chiến tranh cùng sự thất nghiệp đưa trái đất tới chỗ diệt vong . Gia nhập đội ngũ lính ,giết hại lẫn nhau , khủng bố nhau .
&&&&&&
Dân buôn bán vũ khí làm giàu trên sinh mạng con người ! Phải phá hủy vũ khí , bom đạn … Cho đến khi nào trên trái đất không còn tiếng súng , tiếng bom … mới thôi.
Thì lúc đó mọi người mới có thể bắt tay nhau xây dựng 1 thề giới hạnh phúc ấm no . Kỹ nghệ tập trung vào sản xuất lương thực , vật chất máy móc … chăn nuôi trồng trọt đủ thứ …
Tại sao không làm được ? Dẹp bỏ tư tưởng xâm lăng . chiếm đoạt , ngồi không mà hưởng ! Dẹp bỏ tư tưởng bóc lột . Tư tưởng làm
giàu !
Than ôi , làm người khó !
&&&&&&
Thứ Ba, 25 tháng 9, 2007
mỗi ngày 1 ý kiến
Tương lai đi về đâu
Một con người , dù chức nhỏ bé hay quyền cao có những tâm tư giống nhau không ?
Có và không ?
Không phải là theo chức vị cao , oai ngiêm , bệ vệ ; hay chức nhỏ bé , nhu nhược , nhún nhường !
Mà là theo tư cách con người , nghĩa là phần đạo đức , lương tâm và trách nhiệm !
Nếu người giữ chức nhỏ bé , an thường thủ phận , làm theo chức vụ ,( không có chức nào hèn kém ) cẩn thận , không bôi bác , qua loa . Thì là 1 người yêu nước , yêu nhân loại . Ví đã đóng góp sức mình trong công việc !
Cũng như người giữ chức cao . nếu chăm chăm lo chu toàn công việc , không tơ tưởng đến việc thụt két , ăn chặn , hay nói rõ là ăn hoa hồng ! Và thường ngó xuống dân , xem có điều chi khúc mắc , bê trễ thì ra tay giải quyết ! Nếu có gì sai trái , oan ức, thì giải quyết ngay , không chở đề nước đến chân mới nhẩy ! Không chờ dân kêu oan hay góp ý kiến ! Vì bậc trên là nhìn xa trông rộng , không để vướng phải sai sót nhiều .
Giống như người làm nhỏ , lúc nào cũng đi trễ vế sớm , ăn cắp thời gian làm việc ,việc thì bê trễ , có nhắc nhở mới làm .
Hay có tí quyền hành nho nhỏ , thì trù dập , hạch sách hay nhũng nhiễu để ăn tiền …như cấp địa phương …
Không có tài , thì làm liều , hỏng việc , xây dựng nhà máy công trường hư hỏng …
Và không có đức thì hay ăn chặn , đói hoa hồng , giao việc làm cho người nhà , hay tay chân thân tín …
Nếu bị truy ra , thì dùng mọi cách để che dấu tỗi lỗi , hay đổ tội cho kẻ khác …vì sợ bị mất chức , và mất quyền lợi …
Và hơn nữa , lại có phe nhóm có ăn có chịu , nên bao che bảo vệ lẫn nhau !
Chả hạn những nhóm C .A . Giao thông lập 1 đoàn xe tải chở đất đá san lấp mặt bằng . Mỗi nhóm tự tung tự tác 1 địa phương ? và dĩ nhiên , phải có ô dù cấp trên , ( do có cổ phần ở trên ), nên mới lộng hành như vậy .
Chình vì sự liên quan quyền lợi và quyền lực , nên dân khiếu nại về cái lộng hành đó , thì không bao giờ giải quyết được . vấn đề bồi thường giải toả đất đai cũng thế !
Con người vì không có cái tâm , cái đạo đức , nên không thể nào sửa đổi được ! Lòng tham vô tận mà , ngạn ngữ xưa đã nói !
Bởi vậy , nếu không giải quyết tận gốc . mà lại che dấu , kìm hãm nhân dân , giải thích qua loa … và dùng võ lực để cấm khiếu kiện hay đình công về lương bổng …
Thì sẽ làm dân thêm mất niềm tin vào xã hội , sẽ trở nên ù lì , ngu dốt hơn , nhút nhát hơn , mà 1 khi cần sự đóng góp của nhân dân , thì sẽ nhận được những cái lắc đầu vô hồn , không cảm giác .
Và những ngưới thực tâm muốn thay đổi , cũng không còn gì mà hy vọng . Cũng MacKeNo .
Và Xã hội không còn toàn dân đồng lòng tiến lên phía trước nữa , vì còn hơi sức đâu mà tiến . Vì đói bụng và tiến để làm gì và cho ai ?
Một khi mà có bão lụt ,động đất hay lũ xoáy , thì sự đóng góp của dân chắc là không ? Vì sức dân đã kiệt quệ , Hơn nữa , nhiều khi số tiền đóng góp cũng không đền tay người dân nghèo ! Vì bị cán bộ địa phương bỏ túi riêng ! Thật bó tay !
Sửa được không ! cái đó còn tùy vào sự trong sạch của người trên ! Tùy theo sự thông kim bác cổ , thông hiểu khoa học hiện đại , và thanh liêm , công bình chính trực ! Nghĩa là có 1 bộ máy trong sạch từ trên chí dưới !
Dân tộc VN xưa tới nay , không thanh bình yên ổn , giàu sang hạnh phúc . Chỉ vì không mở rộng chính trị , chia quyền lợi và tài sản đồng đều . Nên sự hỗn loạn vẫn xẩy ra chỉ vì kẻ ăn không hết ngưới lần không ra !
XHCN mà không chia tài sản đồng đều thì mới lạ ?
Chia đều cho nhân dân cùng no ấm …cùng tiến bộ …
&&&&&&&
Một con người , dù chức nhỏ bé hay quyền cao có những tâm tư giống nhau không ?
Có và không ?
Không phải là theo chức vị cao , oai ngiêm , bệ vệ ; hay chức nhỏ bé , nhu nhược , nhún nhường !
Mà là theo tư cách con người , nghĩa là phần đạo đức , lương tâm và trách nhiệm !
Nếu người giữ chức nhỏ bé , an thường thủ phận , làm theo chức vụ ,( không có chức nào hèn kém ) cẩn thận , không bôi bác , qua loa . Thì là 1 người yêu nước , yêu nhân loại . Ví đã đóng góp sức mình trong công việc !
Cũng như người giữ chức cao . nếu chăm chăm lo chu toàn công việc , không tơ tưởng đến việc thụt két , ăn chặn , hay nói rõ là ăn hoa hồng ! Và thường ngó xuống dân , xem có điều chi khúc mắc , bê trễ thì ra tay giải quyết ! Nếu có gì sai trái , oan ức, thì giải quyết ngay , không chở đề nước đến chân mới nhẩy ! Không chờ dân kêu oan hay góp ý kiến ! Vì bậc trên là nhìn xa trông rộng , không để vướng phải sai sót nhiều .
Giống như người làm nhỏ , lúc nào cũng đi trễ vế sớm , ăn cắp thời gian làm việc ,việc thì bê trễ , có nhắc nhở mới làm .
Hay có tí quyền hành nho nhỏ , thì trù dập , hạch sách hay nhũng nhiễu để ăn tiền …như cấp địa phương …
Không có tài , thì làm liều , hỏng việc , xây dựng nhà máy công trường hư hỏng …
Và không có đức thì hay ăn chặn , đói hoa hồng , giao việc làm cho người nhà , hay tay chân thân tín …
Nếu bị truy ra , thì dùng mọi cách để che dấu tỗi lỗi , hay đổ tội cho kẻ khác …vì sợ bị mất chức , và mất quyền lợi …
Và hơn nữa , lại có phe nhóm có ăn có chịu , nên bao che bảo vệ lẫn nhau !
Chả hạn những nhóm C .A . Giao thông lập 1 đoàn xe tải chở đất đá san lấp mặt bằng . Mỗi nhóm tự tung tự tác 1 địa phương ? và dĩ nhiên , phải có ô dù cấp trên , ( do có cổ phần ở trên ), nên mới lộng hành như vậy .
Chình vì sự liên quan quyền lợi và quyền lực , nên dân khiếu nại về cái lộng hành đó , thì không bao giờ giải quyết được . vấn đề bồi thường giải toả đất đai cũng thế !
Con người vì không có cái tâm , cái đạo đức , nên không thể nào sửa đổi được ! Lòng tham vô tận mà , ngạn ngữ xưa đã nói !
Bởi vậy , nếu không giải quyết tận gốc . mà lại che dấu , kìm hãm nhân dân , giải thích qua loa … và dùng võ lực để cấm khiếu kiện hay đình công về lương bổng …
Thì sẽ làm dân thêm mất niềm tin vào xã hội , sẽ trở nên ù lì , ngu dốt hơn , nhút nhát hơn , mà 1 khi cần sự đóng góp của nhân dân , thì sẽ nhận được những cái lắc đầu vô hồn , không cảm giác .
Và những ngưới thực tâm muốn thay đổi , cũng không còn gì mà hy vọng . Cũng MacKeNo .
Và Xã hội không còn toàn dân đồng lòng tiến lên phía trước nữa , vì còn hơi sức đâu mà tiến . Vì đói bụng và tiến để làm gì và cho ai ?
Một khi mà có bão lụt ,động đất hay lũ xoáy , thì sự đóng góp của dân chắc là không ? Vì sức dân đã kiệt quệ , Hơn nữa , nhiều khi số tiền đóng góp cũng không đền tay người dân nghèo ! Vì bị cán bộ địa phương bỏ túi riêng ! Thật bó tay !
Sửa được không ! cái đó còn tùy vào sự trong sạch của người trên ! Tùy theo sự thông kim bác cổ , thông hiểu khoa học hiện đại , và thanh liêm , công bình chính trực ! Nghĩa là có 1 bộ máy trong sạch từ trên chí dưới !
Dân tộc VN xưa tới nay , không thanh bình yên ổn , giàu sang hạnh phúc . Chỉ vì không mở rộng chính trị , chia quyền lợi và tài sản đồng đều . Nên sự hỗn loạn vẫn xẩy ra chỉ vì kẻ ăn không hết ngưới lần không ra !
XHCN mà không chia tài sản đồng đều thì mới lạ ?
Chia đều cho nhân dân cùng no ấm …cùng tiến bộ …
&&&&&&&
Thứ Sáu, 21 tháng 9, 2007
góp ý vui vẻ
Chính sách đắp đê ?
Khi nước sông dâng lên , ta phải đáp đê .
Khi nước ngập , ta phải nâng đường , nâng nhà .
Khi nước lụt , ta phải chịu thua ? Vì chạy đâu cho thoát , khi tứ bề thụ địch ?
Vì vậy , cả đời ta lúc nào cũng lo lắng để làm mà không có thời gian yên vui hạnh phúc ? Vì nếu không làm , thì nước lên làm ta chết không kịp trở tay ?
Tại sao không tìm 1 cách khác an toàn hơn ? Lâu dài hơn không phải làm đi làm lại , làm hết năm này qua năm khác ? Tốn công tốn của , mà hiệu quả là con số không ?
Nó có quá khó khăn không ? Ngoài tầm tay không ?
Đó là 1 chính sách ngăn chặn , ngăn ngừa , chính sách đối kháng ! mâu thuẫn ! Theo chính sách này , thì công việc làm không bao giớ chấm dứt ! hết cái này sẽ lòi ra cái khác .
Đó chỉ là nói tới việc nước nôi , sông rạch , ngập lụt …
Ngoài ra còn nhiều việc khác , mà cách giải quyết nếu giống như đắp đê , thì sẽ không bao giờ giải quyết trọn vẹn .
&&&
Tại sao thế ?
Nhìn bề ngoài , thấy lối làm việc kiểu đắp đê , thì đơn giản hơn nhiều , dễ làm . Nhân dân nhìn vô , thì thấy chính quyền hăng hái , năng động , nhiệt tình … Nhưng về lâu dài , thì không hiệu quả , phải làm đi làm lại , cũng chỉ có 1 vấn đề mà không giải quyết xong , nhiều khi còn bầy hầy vương vãi thêm .
Đường 3-2 ngập , giải quyết bằng việc nâng cao đường . Xong . Đường 3 -2 hết ngập . Nhưng toàn bộ những con đường giao nhau lại bị ngập lụt . Nước vào cả nhà dân . Từ 1 chỗ bị ngập nước , nay lại đẻ ra thêm hàng chục điểm ngập nước khác cùng cả ngàn hộ dân .Và sang năm , kinh phí đẻ ra gấp chục lần , vì có hàng chục con đường bị ngập ! Nhà nước chỉ nâng vài con đường mà thôi , vì không có tiền ! Nhưng khi những con đường ngang này được nâng , đường cấp 2 chả hạn , thì nước lại dồn về đường cấp 3 , cùng nhà dân trong ngõ hẻm . Lại thêm hàng trăm điểm ngập lụt nữa !
Từ 1 điểm ngập là đường 3-2 ,cho tới giớ là bao nhiêu con đường cùng nhà dân bị ngập ? Mà năm nào cũng hò hét tăng năng xuất ? Tăng ngân sách ? Tăng lao động ?
Thế cho nên chính sách đắp đê ,không thành công ? Đã thế , các đại gia công trình xây dựng đô thị mới , lại san lấp càc sông rạch , bê tông hoá mặt đất không có chỗ thoát nước !
&&&
Còn về vấn đề xe cộ , kẹt đường !
Chỉ phạt và giam xe , là cách giải quyết cũng giống như đắp đê ! Không sao thành công ! Nếu giam xe , thì số người lao động đã nghèo , nay lại càng chết ! Vì phương tiện làm ăn buôn bán bị ách tắc ! Công nhân viên không đi làm được , sẽ bị sa thải hay cách chức , giáng chức . Thật là 1 viễn ảnh không đẹp cho hân dân !
Còn muốn hạn chế xe lưu thông bằng cách đóng thuế hàng năm . Lại càng đẩy dân vào chỗ chết ! Bọn đua xe , chạy ẩu , đa số là nhà giàu , tiền phạt không nhằm nhò gì ! Và giam xe cũng chẳng làm chúng chùn chân , chúng có xe khác liền 2- 3 chiếc lận . Và chạy ẩu , không sao giảm được !
Bởi vậy nếu không có 1 tầm nhìn xa trông rộng , thì sẽ không giải quyết được vấn đề nào cả .
&&&
Vài thí dụ giải quyết vấn đề tận gốc !
Muốn không ngập , phải làm nhiều cống thoát nước , khai thông sông rạch , trồng cây nơi đầu nguồn , bớt bê tông hoá mặt đất , làm chỗ thoát nước nhanh .
Chứ muốn nâng nền hay đắp đê , thì phải nâng nền toàn thành phố ? Hay đắp đê khắp 2 bên những con sông từ nam chí bắc ? Vấn đế náy kinh phí và sức người không kham nổi !
Mà chưa chắc đã tốt đẹp , vì số lượng nước sinh hoạt thải ra , không có chỗ thoát , sẽ đọng lại , cũng vẫn gây ngập .
&&&
Vấn đề kẹt xe cũng thế . Mở rộng đường là không thể . Vì nhà cửa hiện nay thiếu hụt , dân không chỗ ở . Sẽ đi về đâu ? Nếu nhà bị cắt ngắn 1 nửa ? Phạt nặng để xe lưu thông đàng hoàng ư ? Đóng thuế giao thông 1 triệu $ 1 năm ư ? Cấm xe máy ư ? Toàn là những giải pháp ngăn cấm , kiểu đắp đê ? Nó sẽ đẻ ra nhiều rắc rối khác mà ta sẽ phải trả giá ? Dân chúng sẽ dao động , không tâm phục khấu phục … kèm theo đói kém , tiêu cực sẽ xẩy ra , trôm cướp , lừa gạt …
Vài gợi ý nhỏ , ai ở quận nào , thì làm việc hay đi học ngay quận đó ,đỡ phải di chuyễn xa xôi . Học sinh đi bộ , không cần bố mẹ chở !
Bớt dạy thêm học thêm , mà giáo viên nên dạy cho kỹ , cho học sinh hiểu rõ ràng , bớt chương trình cho phù hợp với thời gian học .
Mở trường đại học cao đẳng ,hay cơ quan . nhà máy , tại địa phương , để học sinh không cần lên thành phố học .
Không xây cao ốc hay khu vui chơi giải trí trong thành phố mà chuyển ra ngoại thành …
Và sau cùng là mở những thành phố mới , khu dân cư với nhà máy , trường học , bệnh viện …
&&&
Nên giải quyết mọi vấn đề 1 cách vừa lòng khách đền !!! Chứ không nên chỉ ngăn với cấm !!!
Tuy lâu nhưng hiệu quả thật số dách .
&&&
Khi nước sông dâng lên , ta phải đáp đê .
Khi nước ngập , ta phải nâng đường , nâng nhà .
Khi nước lụt , ta phải chịu thua ? Vì chạy đâu cho thoát , khi tứ bề thụ địch ?
Vì vậy , cả đời ta lúc nào cũng lo lắng để làm mà không có thời gian yên vui hạnh phúc ? Vì nếu không làm , thì nước lên làm ta chết không kịp trở tay ?
Tại sao không tìm 1 cách khác an toàn hơn ? Lâu dài hơn không phải làm đi làm lại , làm hết năm này qua năm khác ? Tốn công tốn của , mà hiệu quả là con số không ?
Nó có quá khó khăn không ? Ngoài tầm tay không ?
Đó là 1 chính sách ngăn chặn , ngăn ngừa , chính sách đối kháng ! mâu thuẫn ! Theo chính sách này , thì công việc làm không bao giớ chấm dứt ! hết cái này sẽ lòi ra cái khác .
Đó chỉ là nói tới việc nước nôi , sông rạch , ngập lụt …
Ngoài ra còn nhiều việc khác , mà cách giải quyết nếu giống như đắp đê , thì sẽ không bao giờ giải quyết trọn vẹn .
&&&
Tại sao thế ?
Nhìn bề ngoài , thấy lối làm việc kiểu đắp đê , thì đơn giản hơn nhiều , dễ làm . Nhân dân nhìn vô , thì thấy chính quyền hăng hái , năng động , nhiệt tình … Nhưng về lâu dài , thì không hiệu quả , phải làm đi làm lại , cũng chỉ có 1 vấn đề mà không giải quyết xong , nhiều khi còn bầy hầy vương vãi thêm .
Đường 3-2 ngập , giải quyết bằng việc nâng cao đường . Xong . Đường 3 -2 hết ngập . Nhưng toàn bộ những con đường giao nhau lại bị ngập lụt . Nước vào cả nhà dân . Từ 1 chỗ bị ngập nước , nay lại đẻ ra thêm hàng chục điểm ngập nước khác cùng cả ngàn hộ dân .Và sang năm , kinh phí đẻ ra gấp chục lần , vì có hàng chục con đường bị ngập ! Nhà nước chỉ nâng vài con đường mà thôi , vì không có tiền ! Nhưng khi những con đường ngang này được nâng , đường cấp 2 chả hạn , thì nước lại dồn về đường cấp 3 , cùng nhà dân trong ngõ hẻm . Lại thêm hàng trăm điểm ngập lụt nữa !
Từ 1 điểm ngập là đường 3-2 ,cho tới giớ là bao nhiêu con đường cùng nhà dân bị ngập ? Mà năm nào cũng hò hét tăng năng xuất ? Tăng ngân sách ? Tăng lao động ?
Thế cho nên chính sách đắp đê ,không thành công ? Đã thế , các đại gia công trình xây dựng đô thị mới , lại san lấp càc sông rạch , bê tông hoá mặt đất không có chỗ thoát nước !
&&&
Còn về vấn đề xe cộ , kẹt đường !
Chỉ phạt và giam xe , là cách giải quyết cũng giống như đắp đê ! Không sao thành công ! Nếu giam xe , thì số người lao động đã nghèo , nay lại càng chết ! Vì phương tiện làm ăn buôn bán bị ách tắc ! Công nhân viên không đi làm được , sẽ bị sa thải hay cách chức , giáng chức . Thật là 1 viễn ảnh không đẹp cho hân dân !
Còn muốn hạn chế xe lưu thông bằng cách đóng thuế hàng năm . Lại càng đẩy dân vào chỗ chết ! Bọn đua xe , chạy ẩu , đa số là nhà giàu , tiền phạt không nhằm nhò gì ! Và giam xe cũng chẳng làm chúng chùn chân , chúng có xe khác liền 2- 3 chiếc lận . Và chạy ẩu , không sao giảm được !
Bởi vậy nếu không có 1 tầm nhìn xa trông rộng , thì sẽ không giải quyết được vấn đề nào cả .
&&&
Vài thí dụ giải quyết vấn đề tận gốc !
Muốn không ngập , phải làm nhiều cống thoát nước , khai thông sông rạch , trồng cây nơi đầu nguồn , bớt bê tông hoá mặt đất , làm chỗ thoát nước nhanh .
Chứ muốn nâng nền hay đắp đê , thì phải nâng nền toàn thành phố ? Hay đắp đê khắp 2 bên những con sông từ nam chí bắc ? Vấn đế náy kinh phí và sức người không kham nổi !
Mà chưa chắc đã tốt đẹp , vì số lượng nước sinh hoạt thải ra , không có chỗ thoát , sẽ đọng lại , cũng vẫn gây ngập .
&&&
Vấn đề kẹt xe cũng thế . Mở rộng đường là không thể . Vì nhà cửa hiện nay thiếu hụt , dân không chỗ ở . Sẽ đi về đâu ? Nếu nhà bị cắt ngắn 1 nửa ? Phạt nặng để xe lưu thông đàng hoàng ư ? Đóng thuế giao thông 1 triệu $ 1 năm ư ? Cấm xe máy ư ? Toàn là những giải pháp ngăn cấm , kiểu đắp đê ? Nó sẽ đẻ ra nhiều rắc rối khác mà ta sẽ phải trả giá ? Dân chúng sẽ dao động , không tâm phục khấu phục … kèm theo đói kém , tiêu cực sẽ xẩy ra , trôm cướp , lừa gạt …
Vài gợi ý nhỏ , ai ở quận nào , thì làm việc hay đi học ngay quận đó ,đỡ phải di chuyễn xa xôi . Học sinh đi bộ , không cần bố mẹ chở !
Bớt dạy thêm học thêm , mà giáo viên nên dạy cho kỹ , cho học sinh hiểu rõ ràng , bớt chương trình cho phù hợp với thời gian học .
Mở trường đại học cao đẳng ,hay cơ quan . nhà máy , tại địa phương , để học sinh không cần lên thành phố học .
Không xây cao ốc hay khu vui chơi giải trí trong thành phố mà chuyển ra ngoại thành …
Và sau cùng là mở những thành phố mới , khu dân cư với nhà máy , trường học , bệnh viện …
&&&
Nên giải quyết mọi vấn đề 1 cách vừa lòng khách đền !!! Chứ không nên chỉ ngăn với cấm !!!
Tuy lâu nhưng hiệu quả thật số dách .
&&&
Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2007
trích sách Kybalion
Dịch Học Tinh Hoa – Nguyễn Duy Cần –
Trích Trang Phụ Chú – ( p . 228 )
&&&&&&
KYBALION .
Nơi bài tựa quyển sách này , có lới giới thiệu như sau :
Sách Kybalion , quả quyết là 1quyển sách vượt loại thường , nó là ấn chứng của sự khôn ngoan và huyền diệu . Quyển sách nhỏ này thật thâm sâu dưới 1 hình thức thật giản dị : nó cực kỳ sâu sắc … Những định luật tối cao chỉ huy mọi hiện tượng trên đời , và cả bản thân chúng ta nữa , đều đã được trình bày một cách hết sứ là đơn giản …
Quyển Kybalion , mà chúng tôi thường đề cập đến như là 1quyển kỳ thư , 1 quyển kinh Dịch của Ai Cập và Hi lạp cổ truyền . Nó vừa là 1 quyển minh triết , vừa là 1 quyển sách huyền nhiệm dùng làm căn bản cho tất cả mọi thứ học huyền bí cổ đại ở miền Trung Đông , Ai cập và Hi Lạp . Những nguyên lý căn bản của nó đều là những nguyên lý mà kinh Dịch của Trung Hoa đã nêu ra . Điều đặc biệt nhất là những nhà bình giảng nó , đã dùng khoa học cận đại để giải thích , nên những gì thật huyền bí đã trở thành rất dễ hiểu cho những ai có 1 trình độ khá cao về khoa học Tây phương cận đại và hiện đại .
Quyển sách mà chúng tôi được hân hạnh nghiên cứu đã được mua từ năm 1927 , và cho đến nay đường như không thấy được tái bản . Dưới đây 1 vài đoạn văn tiêu biểu trích trong quyển rất quí báu ấy để các bạn thưởng thức và so sánh :
Những nguyên lý chánh của chân lý tối thượng chỉ có 7 ; kẻ nào hiểu biết được nó là đã nắm được cái chìa khóa mầu nhiệm mở được tất cả những cửa Đền chân lý trước khi đá động đến nó .
( Tiếng Pháp … ) Bảy nguyên lý trên đây đều là những nguyên lý căn bản đã được trình bày trong Kinh Dịch .
1) Nguyên lý thứ 1 : Chính là chỗ Dịch gọi là Thái Cực , hoặc Thái Nhất ( Đạo ) . Nó là 1 bầu điện khí linh thiêng ,nguồn sống của Vũ trụ Vạn vật . Đạo , người Tây phương dịch nó là Mental Cosmique , đó là chữ Thần của Kinh Dịch . Esprit ( viết với chữ E hoa ) để phân biệt với chữ thần ( esprit ) đối với vật ( matiere ) . Cho nên mới nói “ Le tout est Esprit “ , “ l’ Univers est Esprit “ .
Vũ trụ do khí Âm Dương mà ra , nhưng Khí ấy gọi là Thần , cho nên tác dụng của cả Âm lẫn Dương mới là Thần : “Tinh khí vị chi Thần “ Âm là Tinh , Dương là Khí , cả 2 mà hợp lại mới thành vật . Cái sự phối hợp ấy gọi chung là Thần .” Âm Dương bất trắc chi vị Thần “ . Bất trắc đây có nghĩa là chế hóa lẫn nhau , luôn luôn có mặt ( lưỡng tại ) không bao giờ rời nhau , qua lại với nhau và trao đổi với nhau . “ Không lường trước được “ .Tất cả mọi sự sinh , khắc , chế , hóa … của Âm Dương Ngũ Hành . Đó là Thần hóa
Một nơi khác đã định nghĩa chữ Đạo như vầy : “ Đạo sinh Nhất , Nhất vi Thái Cực …Nhất , hà dã ? Thiên địa chi tâm dã . Tạo hóa chi nguyên dã .”( Tống Nguyên học án ) ( Đạo sinh 1 , 1 tức là Thái cực ,1 là gì ? Là cái tâm của Trời ( dương ) Đất ( Âm ) . ( xem quyển Tinh hoa Đạo học Đông phương ) .
Câu Le Tout est Esprit có nghĩa là tất cả là Đạo , là Thái cực , Vạn vật các hữu thái cực .
2) Nguyên lý thứ 2 : Thiên nhân tương ứng , bất cứ sự gì việc gì đều cùng 1 lý như nhau . Biết rõ sự cấu tạo cúa hột nguyên tử là biết rõ sự cấu tạo của 1 dải ngân hà .
3) Nguyên lý thứ 3 : Tất cả không có cái gì đứng yên 1 chỗ , không có cái gì không máy động , không có cái gì không rung động . Chính đây là cái nghĩa chánh của Dịch : Dịch là biến .
4) Nguyên lý thứ 4 : Tất cả đều có 2 mặt ; những đối cực đều cùng 1 bản tính nhưng khác độ ; những cái cực đoan lại gặp nhau ; tất cả mọi chân lý đều là những chân lý 1 mặt ( 1 nửa chân lý ) ; tất cả mọi nghịch thuyết đều có thể dung hòa . Đó là cái lý “ Một mà Hai , Hai mà Một “ của Dịch lý . Thái cực nhi lưỡng nghi , lưỡng nghi nhi thái cực . Đó là cái lý “ bất nhị nhất nguyên “ của Dịch .
5) Nguyên lý thừ 5 : Cái gì cũng trôi qua , và trôi đi mãi mãi ; sự gì vật gì đều có cái thời gian của nó , tất cả đều tiến rồi thối , sự qua qua lại lại của cái đòng đưa đều hiện lên trong mỗi sự vật , sự lắc qua bên mặt cũng dồng với sự lắc qua bên trái ; tiết điệu luôn luôn không thay đổi. Dịch bảo : Biến hóa giả , tiến thoái chi tượng dã , vãng lai bất cùng chi vị thông .
6) Nguyên lý thứ 6 : Nhân nào quả nấy , tất cả việc gì đều xẩy ra theo đúng luật định cả ; cái mà ta gọi là May Mắn chỉ là 1 tiếng nói vô nghĩa vì không hiểu Luật . Có rát nhiều nguyên nhân và không có 1 sự vật nào vượt thoát được Luât tự nhiên của Trời Đất cả . Tức là chỗ mà Dịch bảo : Cùng Lý Tận Tánh . để mà Tri Cơ Thám Nguyên .
7) Nguyên lý thứ 7 : Bất cứ sự vật gì đều có 1 Âm 1 Dương , bất cứ trên bình diện nào đều có Âm Dương cả . Bình luận về nguyên lý này , sách Kybalion đưa ra nhiều ý kiến rất hay và lưu ý chúng ta đứng hiểu lầm 2 tiếng âm dương giống với sự phân giống về vấn đề sinh lý giữa giống cái và giống đực . Đoạn văn sau đây rất đặc biệt : Người ta thường dùng danh từ Âm như là cái gì có tánh cách tiêu cực ( negatif ) và Dương như là 1 cái gì có tánh cách tích cực ( positif ) .danh từ tiêu cực ( negatif ) mà các nhà khoa học đã dùng trước đây không xác đáng , phải gọi là cathode ( âm cực ) vì theo ngữ căn của nó , có nghĩa là đi xuống ( mà Dịch gọi là Âm giàng ) lại cũng có nghĩa là đẻ ra ( engendrer ) . Từ chỗ Âm cực ( cathode ) xuất hiện những điện tử electrons . Cathode là nguồn gốc ( như bà mẹ ) sinh ra những hiện tượng lạ lùng đã làm thay đổi những quan niệm vật lý cách đây đã lâu . Nó là nguyên lý Âm ( Principe Maternel ) mà nhà Lão gọi là Huyền Tẫn : Huyền Tẫn chi môn , thị vị thiên địa căn .Thiếu Âm , vạn vật không tồn tại .
&&&&&&
Ghi nhận : Những sách quí bây giờ ở đâu ? trên Google không thấy ? Thời đại bây giờ , thế giới chia tam xẻ tứ , không ai chịu thua ai , ai cũng cho mình là nắm giữ chân lý , kể cả tôn giáo! Thế nên chiến tranh không chấm dứt ? nếu theo ý kiến người đượng thời : tôn giáo nào cũng tốt , cũng thương nhân loại , thì tại sao phải chiêu mộ con người gia nhập tôn giáo mình ? Tôn giáo nào cũng tốt cơ mà ? Đảng phái cũng vậy , đảng nào cũng tốt ,giả dụ thế , thì sao phải bắt , cưỡng ép con người gia nhập ? Nếu không gia nhập thì sẽ bị trừng phạt ?
Như thề là đi ngược với tôn chỉ ban đầu , là yêu thương không phân biệt mọi thứ ?
Mị dân chăng ?
Hãy xem !
&&&&&&
Trích Trang Phụ Chú – ( p . 228 )
&&&&&&
KYBALION .
Nơi bài tựa quyển sách này , có lới giới thiệu như sau :
Sách Kybalion , quả quyết là 1quyển sách vượt loại thường , nó là ấn chứng của sự khôn ngoan và huyền diệu . Quyển sách nhỏ này thật thâm sâu dưới 1 hình thức thật giản dị : nó cực kỳ sâu sắc … Những định luật tối cao chỉ huy mọi hiện tượng trên đời , và cả bản thân chúng ta nữa , đều đã được trình bày một cách hết sứ là đơn giản …
Quyển Kybalion , mà chúng tôi thường đề cập đến như là 1quyển kỳ thư , 1 quyển kinh Dịch của Ai Cập và Hi lạp cổ truyền . Nó vừa là 1 quyển minh triết , vừa là 1 quyển sách huyền nhiệm dùng làm căn bản cho tất cả mọi thứ học huyền bí cổ đại ở miền Trung Đông , Ai cập và Hi Lạp . Những nguyên lý căn bản của nó đều là những nguyên lý mà kinh Dịch của Trung Hoa đã nêu ra . Điều đặc biệt nhất là những nhà bình giảng nó , đã dùng khoa học cận đại để giải thích , nên những gì thật huyền bí đã trở thành rất dễ hiểu cho những ai có 1 trình độ khá cao về khoa học Tây phương cận đại và hiện đại .
Quyển sách mà chúng tôi được hân hạnh nghiên cứu đã được mua từ năm 1927 , và cho đến nay đường như không thấy được tái bản . Dưới đây 1 vài đoạn văn tiêu biểu trích trong quyển rất quí báu ấy để các bạn thưởng thức và so sánh :
Những nguyên lý chánh của chân lý tối thượng chỉ có 7 ; kẻ nào hiểu biết được nó là đã nắm được cái chìa khóa mầu nhiệm mở được tất cả những cửa Đền chân lý trước khi đá động đến nó .
( Tiếng Pháp … ) Bảy nguyên lý trên đây đều là những nguyên lý căn bản đã được trình bày trong Kinh Dịch .
1) Nguyên lý thứ 1 : Chính là chỗ Dịch gọi là Thái Cực , hoặc Thái Nhất ( Đạo ) . Nó là 1 bầu điện khí linh thiêng ,nguồn sống của Vũ trụ Vạn vật . Đạo , người Tây phương dịch nó là Mental Cosmique , đó là chữ Thần của Kinh Dịch . Esprit ( viết với chữ E hoa ) để phân biệt với chữ thần ( esprit ) đối với vật ( matiere ) . Cho nên mới nói “ Le tout est Esprit “ , “ l’ Univers est Esprit “ .
Vũ trụ do khí Âm Dương mà ra , nhưng Khí ấy gọi là Thần , cho nên tác dụng của cả Âm lẫn Dương mới là Thần : “Tinh khí vị chi Thần “ Âm là Tinh , Dương là Khí , cả 2 mà hợp lại mới thành vật . Cái sự phối hợp ấy gọi chung là Thần .” Âm Dương bất trắc chi vị Thần “ . Bất trắc đây có nghĩa là chế hóa lẫn nhau , luôn luôn có mặt ( lưỡng tại ) không bao giờ rời nhau , qua lại với nhau và trao đổi với nhau . “ Không lường trước được “ .Tất cả mọi sự sinh , khắc , chế , hóa … của Âm Dương Ngũ Hành . Đó là Thần hóa
Một nơi khác đã định nghĩa chữ Đạo như vầy : “ Đạo sinh Nhất , Nhất vi Thái Cực …Nhất , hà dã ? Thiên địa chi tâm dã . Tạo hóa chi nguyên dã .”( Tống Nguyên học án ) ( Đạo sinh 1 , 1 tức là Thái cực ,1 là gì ? Là cái tâm của Trời ( dương ) Đất ( Âm ) . ( xem quyển Tinh hoa Đạo học Đông phương ) .
Câu Le Tout est Esprit có nghĩa là tất cả là Đạo , là Thái cực , Vạn vật các hữu thái cực .
2) Nguyên lý thứ 2 : Thiên nhân tương ứng , bất cứ sự gì việc gì đều cùng 1 lý như nhau . Biết rõ sự cấu tạo cúa hột nguyên tử là biết rõ sự cấu tạo của 1 dải ngân hà .
3) Nguyên lý thứ 3 : Tất cả không có cái gì đứng yên 1 chỗ , không có cái gì không máy động , không có cái gì không rung động . Chính đây là cái nghĩa chánh của Dịch : Dịch là biến .
4) Nguyên lý thứ 4 : Tất cả đều có 2 mặt ; những đối cực đều cùng 1 bản tính nhưng khác độ ; những cái cực đoan lại gặp nhau ; tất cả mọi chân lý đều là những chân lý 1 mặt ( 1 nửa chân lý ) ; tất cả mọi nghịch thuyết đều có thể dung hòa . Đó là cái lý “ Một mà Hai , Hai mà Một “ của Dịch lý . Thái cực nhi lưỡng nghi , lưỡng nghi nhi thái cực . Đó là cái lý “ bất nhị nhất nguyên “ của Dịch .
5) Nguyên lý thừ 5 : Cái gì cũng trôi qua , và trôi đi mãi mãi ; sự gì vật gì đều có cái thời gian của nó , tất cả đều tiến rồi thối , sự qua qua lại lại của cái đòng đưa đều hiện lên trong mỗi sự vật , sự lắc qua bên mặt cũng dồng với sự lắc qua bên trái ; tiết điệu luôn luôn không thay đổi. Dịch bảo : Biến hóa giả , tiến thoái chi tượng dã , vãng lai bất cùng chi vị thông .
6) Nguyên lý thứ 6 : Nhân nào quả nấy , tất cả việc gì đều xẩy ra theo đúng luật định cả ; cái mà ta gọi là May Mắn chỉ là 1 tiếng nói vô nghĩa vì không hiểu Luật . Có rát nhiều nguyên nhân và không có 1 sự vật nào vượt thoát được Luât tự nhiên của Trời Đất cả . Tức là chỗ mà Dịch bảo : Cùng Lý Tận Tánh . để mà Tri Cơ Thám Nguyên .
7) Nguyên lý thứ 7 : Bất cứ sự vật gì đều có 1 Âm 1 Dương , bất cứ trên bình diện nào đều có Âm Dương cả . Bình luận về nguyên lý này , sách Kybalion đưa ra nhiều ý kiến rất hay và lưu ý chúng ta đứng hiểu lầm 2 tiếng âm dương giống với sự phân giống về vấn đề sinh lý giữa giống cái và giống đực . Đoạn văn sau đây rất đặc biệt : Người ta thường dùng danh từ Âm như là cái gì có tánh cách tiêu cực ( negatif ) và Dương như là 1 cái gì có tánh cách tích cực ( positif ) .danh từ tiêu cực ( negatif ) mà các nhà khoa học đã dùng trước đây không xác đáng , phải gọi là cathode ( âm cực ) vì theo ngữ căn của nó , có nghĩa là đi xuống ( mà Dịch gọi là Âm giàng ) lại cũng có nghĩa là đẻ ra ( engendrer ) . Từ chỗ Âm cực ( cathode ) xuất hiện những điện tử electrons . Cathode là nguồn gốc ( như bà mẹ ) sinh ra những hiện tượng lạ lùng đã làm thay đổi những quan niệm vật lý cách đây đã lâu . Nó là nguyên lý Âm ( Principe Maternel ) mà nhà Lão gọi là Huyền Tẫn : Huyền Tẫn chi môn , thị vị thiên địa căn .Thiếu Âm , vạn vật không tồn tại .
&&&&&&
Ghi nhận : Những sách quí bây giờ ở đâu ? trên Google không thấy ? Thời đại bây giờ , thế giới chia tam xẻ tứ , không ai chịu thua ai , ai cũng cho mình là nắm giữ chân lý , kể cả tôn giáo! Thế nên chiến tranh không chấm dứt ? nếu theo ý kiến người đượng thời : tôn giáo nào cũng tốt , cũng thương nhân loại , thì tại sao phải chiêu mộ con người gia nhập tôn giáo mình ? Tôn giáo nào cũng tốt cơ mà ? Đảng phái cũng vậy , đảng nào cũng tốt ,giả dụ thế , thì sao phải bắt , cưỡng ép con người gia nhập ? Nếu không gia nhập thì sẽ bị trừng phạt ?
Như thề là đi ngược với tôn chỉ ban đầu , là yêu thương không phân biệt mọi thứ ?
Mị dân chăng ?
Hãy xem !
&&&&&&
Thứ Tư, 12 tháng 9, 2007
bí kíp võ công : Nho giáo .
VIỆT LÝ TỐ NGUYÊN – KIM ĐỊNH – Triết lý an vi -
CHƯƠNG XVII – KHỔNG TỬ VỚI VIỆT NHO . ( p 311 )
&&&
Nếu hỏi trong số kẻ sĩ ai là người nổi nhất , thì câu thưa sẽ đồng thanh là Khổng Tử . Khổng Tử được suy tôn là Vạn Thế Sư Biểu , không ai chối cãi và cho tới mấp mí đầu thế kỷ 20 hễ nói đến văn hóa Viễn Đông là nói đến Khổng . Cũng như nước Tàu là nước của Khổng , đến nỗi các học giả Tây Âu chỉ có 1 tiếng duy nhất để chỉ Nho Giáo đó là Khổng Giáo ( chỉ có Confu-ciansme chứ không có Nhoisme ) .
Điều ấy nói lên cái uy thế mãnh liệt của Khổng Tử trên tâm trí người Viễn Đông trải qua hơn 20 thế kỷ . Trong lịch sử nhân loại chưa có 1 hiền triết nào đạt được uy tín lớn lao như vậy , cả về thời gian lâu dài lẫn số người chịu ảnh hưởng đông đảo . Mãi cho tới đầu thế kỷ 20 này thì Khổng Tử mới bị ruồng bỏ như 1 cái chi lỗi thời .
Điểm lỗi thời nhất là vì vào phe với vua quan phong kiến để miệt thị dân chúng mà Nho giáo kêu là tiểu nhân … Riêng đối với Việt Nam thì Khổng còn bị ruồng rẫy vì là người Tàu tức nhóm người luôn luôn có dã tâm xâm lăng và đồng hóa nước ta . Vì thế Khổng Tử bị trí thức mới coi như kẻ thù dân tộc …
Đại để đó là mấy lý do khiến Khổng Tử từ địa vị ông thầy có uy tín nhất trở thành 1 người xa lạ nếu không là thù địch nhất .Trong sách này chúng ta sẽ lần lượt xét lại mấy lý do trên xem có nền tảng tới đâu .
Trước hết Khổng Tử là người Tàu ? Câu nói này thường phát xuất do những người sính Tây , và chúng ta ngửi ngay thấy cái giọng kỳ thị chủng tộc của phương Tây ra sao . Kỳ thị chủng tộc thì đâu cũng có nhưng nặng nhất đến độ trở thành 1 chủ nghĩa thì là nét đặc trung của nền văn hóa Âu tây . Đến nỗi những người đã được tẩm nhuận trong bầu khí đó chiếu giải tâm trí họ vào cùng khắp , nghĩa là họ thấy bóng kỳ thị ở những chỗ không có kỳ thị hoặc không có đến mức như họ tưởng và không nhận ra đươc rằng nếu người Việt đáng gọi là đi theo ngoại lai vì học chữ Nho thì càng là ngoại lai hơn bội phần vì học chữ Tây , vì lẽ đơn sơ là Tây ở xa nước ta hơn nước
Tàu .
Nói khác nếu người Việt Nam theo Tàu đáng lên án thì người Việt Nam theo Tây càng đáng lên án gấp bội . Bởi vì người Tây thuộc chủng tộc khác hẳn , còn người tàu với ta chỉ khác về thị tộc , vì người Tàu cổ đại đã là nơi cư ngụ lâu đời của Viêm Việt . Số người Việt di cư xuống phía Nam lập ra nước Việt Nam hiện nay chỉ là 1 số nhỏ , rất nhỏ so với đại đa số người Việt còn ở lại trong nước Tàu để mà “ bị đồng hóa “ theo như các học giả thường viết , nhưng nếu họ đi sâu hơn thì chắc sẽ viết là “ ở lại để mà đồng hóa Hoa tộc “ .
Nói khác không phải Hoa tộc đồng hóa Việt tộc , nhưng chính Việt tộc đồng hóa Hoa tộc . Hay nói cho thật chính xác thì Hoa Việt đồng hóa lẫn nhau . Nhưng may thay vấn đề ai đồng hóa ai , cũng như vấn đề thị tộc chủng tộc càng ngày càng bớt quan trọng trong cái đà đi đến thống nhất của nhân loại , đến nỗi óc kỳ thị cũng đang bị kết án nặng nề ngay ở Tây phương nơi đã đẻ ra óc kỳ thị chủng tộc và khuynh hướng thống nhất cũng lại đang được cổ vũ mạnh nơi đây .
Nhờ đó chúng ta sẽ được thoát khỏi cái vũng bầy nhầy của 1 vấn đề vừa nan giải vừa vô ích . Nan giải vì trong Khổng Tử có bao nhiêu phần trăm máu Viêm tộc còn lại bao nhiêu máu Hoa tộc , ai mà biết nổi và có cần chi phải biết , ít ra cho chúng ta đang chú trọng đến mối liên hệ văn hóa mà hầu không kể chi tới dòng máu , vì nền văn hóa cố hữu của chúng ta đã không quan trọng hóa óc thị tộc như văn hóa Tây phương lúc trước , nên ta dành vấn đề đó cho mấy người khảo cổ .
Còn chúng ta hãy quay về xét bản chất văn hóa của Khổng Tử , và lúc ấy chúng ta bước vào 1 địa hạt không những ơn ích mà còn có sách vở tài liệu để làm tiêu điểm căn cứ .
Xét về phương diện này thì dễ thấy Khổng Tử hướng hẳn về văn hóa Phương Nam của Viêm Việt . Ông nói :” thuật nhi bất tác “ tức là công nhận rằng ông không sáng tạo ra gì mới cả nhưng chỉ là thuật lại cái Đạo cổ xưa , mà Đạo cổ xưa là gì nếu không là của Việt Nho , 1 đạo đã phát xuất từ phương Nam . Khi Tử Lộ hỏi về đức Cường thì ông phân biệt ra 2 thứ cường : 1 của phương Bắc ưa xông pha trận địa coi thường cái chết , 1 thuộc phương Nam ở tại “khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo , Nam phương chi cường dã , quân tử cư chi “ .
Người quân tử phải ở lại , phải y cứ trên tinh thần phương Nam là “ Khoan nhu dĩ giáo “ . Đọc câu này xong tôi liên tưởng ngay tới câu chuyện Hùng Vương cống Vua Tàu 1 con chim Bạch Trĩ . Con Bạch Trĩ tìm ngành ngã về phương Nam mới đâu , vì đó có câu “ Việt điểu sào nam chi “ ( chim nước Việt đậu ngành phương Nam) . Bạch trĩ nói đây chỉ về những nhân tài Việt tộc tuy hoàn cảnh phải làm việc bên Bắc , nhưng lòng vẫn canh cánh hường về phía Nam , chính trong cái tiềm thức cộng thông đó mà Khổng Tử đề cao 2 sách Châu Nam , Thiệu Nam hết cỡ , đến nỗi với ông kẻ nào không đọc 2 thiên đó thì như người quay mặt vào tường chẳng thấy được chi .
Trong bài “ địa vị tiếng dân “ tôi đã nói đến giá trị 2 thiên này .Nó tối quan trọng và mạnh mẽ . Sở dĩ như vậy vì đã được trần liệt trong 1 cơ sở tinh thần gọi là Nho Giáo . Nho giáo chính là nhu giáo hay nhu đạo , tức là đạo của những người biết “ khoan nhu dĩ giáo , bất báo vô đạo “ . Đó là đạo của phương Nam , đạo của Viêm tộc , của Bách Việt , của Lạc Việt .
Chính họ đã âm thầm tác tạo ra nhu giáo , còn người đã lập thành nhu giáo,là những kẻ sĩ , trong đó có Khổng Tử . Nếu Khổng Tử với nhu giáo là 1 thì cả 2 với Viêm tộc Việt giáo cũng lại là 1 .( 2 cái tương ứng với cái thứ 3 thì cũng tương ứng với nhau ) .Cái thứ 3 là Nho giáo , 2 hạn từ kia là Việm Việt là Khổng Tử . Nếu Khổng Tử là Nho giáo , mà Nho giáo cũng là Viêm giáo ( khoan nhu ) thì Khổng Tử không chống Viêm tộc .
Và vì lý do sâu xa đó khi người ta đả kích Khổng giáo thì dễ lâm vào tai nạn đả phá Việt Giáo , và khi người ta thành công hạ bệ Khổng Tử thì cũng là thành công tước đoạt khỏi tay Viêm Việt cái cơ sở tinh thần đã từng giúp tiên tổ ta giữ nước , giữ nhà , giữ thân tâm của nòi giống , và cũng vì thế kể từ ngày đó các ý hệ ngoại lai tràn đầy vào nước nhà với các bộ mặt tự cao tự đại của quí tộc Tây phương . Đấy là 1 sự thực ê chề đang phơi mặt trước mắt chúng ta nên cần xét lại thấu triệt các mối liên hệ cũ .
&&&
Nét đặc trưng lớn lao hơn hết của Viêm tộc là quyền bính không trao vào tay quí tộc thế tập , nhưng là trao vào tay những người có tài có đức và gọi là truyền hiền hay là nhân trị ; ngược với Pháp hình tự Tây Bắc ưa võ . Với Khổng thì tuy Văn Võ đi đôi nhưng Văn phải ở trên , và tuy chấp nhận Vương triều để trị vì , nhưng quyền cai trị thì phải để cho những người có tài có đức như truyền thống của Viêm tộc , chứ không thể vào tay phái quyền quí thế tập như thói Hoa tộc .
Về sau chủ chương của ông đã thắng thế , cho nên văn minh nông nghiệp của thôn dân đã chống lại được văn minh thị dân có tính chất Công và Thương đượcghi dấu trong câu “ Sĩ , Nông , Công , Thương “ . Sĩ và Nông thuộc Viêm Việt , còn Công và Thương thuộc du mục . Nhiều học giả tố cáo Nho giáo ức Thương thì phần nào đúng , chỉ phiền là họ không biết rằng Thương gia đã gây nên biết bao chênh lệch trong xã hội, làm cho giàu nghèo quá xa cách , là điều đi ngược với thuyết “ quân phân tài sản “ của Viêm tộc . Nho giáo luôn luôn bênh vực thôn dân cũng vì lẽ đó .
Có lẽ nơi sanh quán và cả đến dòng tộc cũng giúp cho Khổng đi về phía nông dân , vì tổ tiên của ông là người nước Tống , rồi sau rời sang nước Lỗ . Vậy mà Tống , Lỗ và Trịnh vẫn được kể như 3 cột trụ của Trung Hoa đời Chu , gọi là Chư Hạ vì cả 3 đều có tiếng là bảo vệ văn hóa nông nghiệp phương Nam ( chữ Hạ chỉ phương Nam mùa hạ ) chống lại văn hóa du mục từ Tây Bắc . Có lẽ vì đó mà huyền thoại nói Thần Nông chôn táng tại nước Lỗ .
Pháp gia quen tố cáo Nho gia là nệ cổ thì trong thực chất có nghĩa là Nho gia đi với phe Viêm Việt đã có lâu đời trước khi Pháp gia của Hoa tộc đến sau . Đến sau nên gọi là Tân , vì thế Tân Pháp vẫn gắn liền với Hoa tộc đối với cổ tục đi với Viêm tộc . Nhưng vì ý thức chủng tộc đã không còn nên thay vì nhân danh Hoa tộc thì người ta đã nhân danh Tân Pháp để đả phá Viêm tộc lúc này đã được gọi là cựu pháp .
Chính đó là lý do giảng nghĩa tại sao Tần Hoàng chủ tâm phá nước Lỗ nhiều hơn đâu hết . Bởi Lỗ là quê hương của các tập truyền Viêm tộc , trong đó có chế độ chư hầu là 1 hình thái liên bang ,1 thể chế đi ngược hẳn với đường lối đế quốc của Tần Hoàng , bắt tất cả mọi nơi theo về 1 phép mà phép đó đặt nặng quyền cha và quyền nhà võ , vẫn thường đi đôi và gây rất nhiều chênh lệch , nên cũng tăng số nô lệ rất nhiều .
Đời Tần và Hán sơ nhiều nô lệ là do đó . Trái ngược hẳn với tinh thần Viêm tộc duy trì nền tự trị địa phương và theo lối cộng sản đại gia đình nên giảm bớt được cảnh chênh lệch trong xã hội rất nhiều . Đây cũng là chỗ nên trả lời thắc mắc tại sao Khổng Tử đề cao những ông vua thuộc Hoa tộc như Nghiêu Thuấn và Tam Đại nhất là nhà Chu “ Ngô tòng Châu “ .
Chúng ta nên nhớ rằng đến đời Khổng Tử thì ý thức chủng tộc đã hầu biến mất và do đó không còn thể nói nhà vua nào thuộc Hoa tộc hay Viêm tộc nữa > Những gia phả của các vua sau Hoàng Đế gặp trong sách vở đều không có gì bảo đảm mà chỉ nên coi là 1 lối gia phả người Hi Lạp xưa hầu hết gốc Thần minh tức cũng theo luật thấy sang bắt quàng làm họ .
Tuy nhiên ngay trong việc đề cao này ta cũng thấy tinh thần Viêm tộc nơi Khổng Tử . Chúng ta cứ giả thuyết là Nghiêu thuộc Hoa tộc , còn Thuấn lá nông dân ở Lôi Trạch ( Kinh Thư Thuấn Điển ) thì rõ rệt Thuấn thuộc Viêm tộc , Mạnh Tử kêu là “ Đông di chi nhân “ . Vậy mà Nghiêu dám trao quyền cho Thuấn thì đó quả là 1 cuộc cách mạng tận gốc vì bỏ họ cha để theo tục họ mẹ và vì tính chất cách mạng đó nên việc trao quyền của Nghiêu đã trở thành tiêu biểu chó 1 đức tối hệ đó là ấp nhượng cũng gọi là Thiện nhượng tức quyền bính trao vào tay người hiền .
Nhờ đó mà 2 đời Nghiêu Thuấn được đề cao là thời cực trị . Sau này ấp nhượng có được thực thi hay chỉ còn là hình thức thì đó là chuyện khác , nhưng tiêu biểu ấp nhượng là Nghiêu Thuấn và cũng vì lẽ đó nên cuộc trao quyền cho Thuấn đã gây nên những chống đối kịch liệt về phí Hoa tộc . Đến khi ông Thuấn lên ngôi đã làm 1 việc rất có công đối với Viêm tộc được nhắc sơ qua trong việc ông khử tứ hung nhưng lại đưa 16 nhân tài về giúp nước .Một việc mà Nghiêu đã không làm được .” Nghiêu bất năng cử , Thuấn thần Nghiêu ,củ bát khải , sử chủ Hâu Thổ , dĩ qui bách sự “ .( Tả Truyện ) .( Nghiêu không cử hiền nổi , nhưng khi Thuấn ra giúp Nghiêu thì đã làm được là đưa 8 người tài năng ra sửa sang việc tế Hậu Thổ , trông coi trăm sự ) .
Như các ông Tiết , Cao Dao , Ích Tắc … Vậy là Thuấn hơn Nghiêu rồi . Nghiêu đáng ca ngợi vì nhường quyền vào tay Thuấn . Còn Thuấn vì có tinh thần Viêm tộc nên đề cao hiền tài hơn là dòng tộc , nên đưa người tài đức ra giúp nước . Con số 8 hay 16 ( cử bát khải , cử thập lục tướng ) chỉ là con số huyền sử , như Si Vưu có 8 cánh thì đây có 8 người tài ( bát khải và bát nguyên là 16 ) .Số 16 là tự nhân với tứ hung hàm nghĩa rằng khi đã đầy tứ hung đi mà cải hóa ( như ông Cổn vì bị đày nên cải hóa ra chim ) thì có hiệu năng gấp 4 .
Viêm tộc bị Hoàng Đế đày ra 4 phía thế mà khi gọi về tham chánh lại tỏ ra tài đức gấp bội . Những suy tư này đựa trên văn hóa chứ không dựa trên dòng tộc được nữa . Vì chủng tộc đã pha đi pha lại , sử liệu cũng đã bị xáo trộn nhiều lần , nhưng tiêu điểm của văn hóa thì khá rõ . Và ta nhận ra tất cả các vua được Khổng Tử đề cao thì đều tiêu biểu cho 1 số đức tính của Viêm tộc , ví dụ vua Nghiêu trước hết nói đến lịch pháp ( Xem Nghiêu điển mở đầu Kinh Thư ) .
Lịch đi với Trời là yếu tố Viêm Việt , Vua Vũ vì được ban cho Hồng Phạm mà Hồng phạm là bản tóm nền minh triết của Hà Lạc tức của Lạc Việt . Ông Chu Công được đề cao vì ông nhiếp chính , mà nhiếp chính là 1 cách để quyền cao trị trong tay người tài đức thường là có tuổi ( theo đúng tục lệ Viêm tộc ) .Vì thế có thể nói mỗi khi Khổng Tử đề cao 1 nhân vật nào là ông đề cao 1 đức tính của Viêm Việt .
Ca ngợi ông Thuấn tận tình với việc nước , không chiếm công vi tư , cả đến quyền bính cũng không trao vào tay con ; còn với dân thì gần gũi mà tôn kính “thân nhi tồn , an nhi kinh “ ( Lễ Ký ) . Vẽ ra ông Thuấn nặng chữ hiếu hơn chữ trung … tất cả đó là 1 lối hạ nhẹ pháp gia khinh dân , để đề cao Viêm Việt thân dân .
Đấy mới chính là lối tranh đấu cho nền văn hóa chân thực mà không xét chi tới nơi phát xuất nữa . Hoa tộc hay Viêm tộc hết quan trọng , điều quan trọng là nhơn tộc , nghĩa là hễ phụng sự con người thì bất cứ từ đâu mà tới nền văn hóa đó đáng được đề cao .
Bây giờ chúng ta bàn đến vấn đề thứ 2 là thân dân . Một số học giả cho rằng Nho giáo rất khinh miệt dân chúng như được ông Granet ghi chú . Khi ta xét lại câu nói đó mới nhận ra rằng 1 số học giả lớp trước ăn nói rất liều lĩnh không biết phân biệt chi hết nên nhiều khi nói lên những điều trái ngược hẳn với sự thực .
Sự thực là trong gầm trời này chưa có giới thức giả nào thân dân cho bằng Nho Sĩ . Sở dĩ 1 số học giả không nhận ra vì trong hàng ngũ sĩ phu cũng có những người như thế , mà phần đông là Pháp gia , họ chủ trương duy trì giai cấp quí tộc thế tập … và thường gọi dân bằng những tên miệt thị như dân đen .( lê dân kiềm thủ ) .
Có lẽ những chữ này do những người xâm lăng có tóc vàng , hay đỏ như người Đột Khuyết . Ngược lại với Pháp gia là Lão Trang chủ trương xóa hết mọi giai cấp để mọi người hoàn toàn bình đẳng . Nhưng đó lại là 1 quá đáng khác vì bên ngoài nghĩa địa và ao tù làm chi có hoàn toàn bình đẳng ? Vì thế chủ trương hoàn toàn bình đẳng chỉ là 1 ước mong không tưởng , quá trớn và chính vì đi quá trớn nên nhiều lần Lão Trang trở thành hàng xóm của Pháp gia trong việc khinh dân .
Chúng ta có thể nói Nho gia chân chính đã tránh được điểm này vì giữa 2 chủ trương cực đoan trên : giữa giai cấp và chối bỏ giai cấp . Nho giáo chủ trương phẩm trật . Phẩm trật nhận có trên có dưới nhưng lại không cứng nhắc như giai cấp , mà chỉ là 1 lối phân công , tùy theo thị hiếu và hoàn cảnh của mỗi người mà không theo thể chế .
Vì vậy khi hoàn cảnh đổi thì cũng đổi thế đứng mà không bị 1 hàng rào luật lệ nào cản ngăn , thí dụ từ vị trí tì thiếp có ngưới đã lên đến Hoàng Hâu , từ nô bộc đã lên đến Hầu Tước : không có hố chia cách nào cả . Mạnh Tử đã phản đối Pháp gia đề cao vua quan bằng câu nói quen thuộc là “ dân vo quí , quân vi khinh “ .Vì câu này mà nhiều học giả cho là Mạnh Tử có óc dân chủ ngược với Khổng Tử bao giờ cũng tôn quân .
Sự thực thì cả 2 cùng 1 chủ trương , có khác nhau chẳng qua chỉ ở đợt nhấn : Khổng Tử ôn hòa , Mạnh Tử thì cạn tàu ráo máng , có thế thôi . Nói cho trúng hơn nữa thì Mạnh Tử chưa gần dân bằng Khổng Tử , Và cũng chính vì ông thân dân nên lời ông không bao giờ thổ lộ ra thói mị dân . Giới trí thức với lối nhìn thô kệch tưởng vậy là miệt thị dân , nhưng có ngờ đâu không tâng bốc dân chính vì đã đi với dân cách thành tín và do đó lời ông đã trở thành minh triết khi hiểu minh triết là những lời bàn về những gì thân cận con người hơn hết ( thiết vấn nhi cận tư ) .
Muốn thấy rõ tinh thần “thân dân “ đó chỉ việcđem những đề tài học hỏi trong các sách triết đang được dạy ra mà so sánh sẽ thấy liền sự khác biệt .Triết Tây dầu là ở cấp trung học hay những sách viết cho sinh viên khoa học nghĩa là những người không chuyên về triết cũng toàn bàn những chuyện xa xôi không ăn nhằm chi tới đời sống dân chúng , đến nỡi học xong không ai biết dùng để làm gì . Còn đây thì thiết cận ngay vào thân tâm ,tu thân , tề gia , trị quốc .
Một số danh từ và ý niệm như quân tử , tính danh ,lễ nghĩa … trước kia phái quí tộc muốn dành làm của riêng ,đến sau cũng được Khổng Tử và môn đệ biến cải cho trở thành của chung toàn dân .( Granet ) .
Một số học giả cho là Nho sĩ về phe Vương triều thì điều ấy chỉ thực cho 1 số cá nhân , hoặc cho Hán Nho quá nhiều chất đề cao vua chúa . Nếu ai hỏi vậy tại sao xuyên qua hơn 2000 năm lịch sử Nho Giáo lại cứ bảo vệ Vương triều , bênh vực nền quân chủ để dân bị đàn áp và khi bị đàn áp quá thì cùng lắm chỉ nổi lên mở đường cho 1 Vương triều mới xuất hiện để rồi lại bị đàn áp …rồi lại đạp đổ để đặt ra 1 Vương triều mới cứ thế trải qua bao ngàn năm mà Nho Giáo không sáng nghĩ ra được 1 thể chế mới như dân chủ để đưa dân ra khỏi vòng luẩn quẩn .
Thiết tưởng đó là 1 điều có lý trên giấy tờ , trong thực trạng còn phải kể tới nhiều chuyện , thí dụ : tâm thức dân chưa đạt tới , kỹ nghệ chưa phát triển đủ , nên nếu có cưỡng đổi thì cũng chẳng hơn gì .Tự ngày Trung Hoa , Việt Nam phá đỗ Vương Quyền cho tới nay hỏi người dân Tàu , dân Việt đã được thêm bao nhiêu quyền lợi , bao nhiêu hạnh phúc hay chỉ có 1 chuỗi những chữ rỗng đủ loại : nào là tự do , bình quyền , tòa án nhân dân …
Vì thế chỉ có những người thiếu từng trải mới nghĩ rằng hễ đổi được thể chế là đổi được tình trạng . Đó là những ý nghĩ học mót của Tây phương đề cao luật lệ mà không chú trọng đến con người .
Các nhà chính trị của chúng ta cũng đang theo lối bánh xe đó bằng dốc toàn lực vào việc viết ra qui chế chính đảng … với các lý luận đủ thứ , các dự án đồ sộ mà không thấy đưa ra 1 cơ sở tinh thần để giáo dục dân . Giáo dục là điều quan trọng hơn hết bị bỏ bê . Xin đừng lầm mở mang học vấn với văn hóa . Văn hóa chân thực phải có định hướng , có lý tưởng mới cải hóa , cảm hóa được con người .
Mà đó mới là then chốt . Bỏ người đi lo về luật lệ thể chế suông là duy vật . Không phải chỉ theo Mác mới là duy vật . Thể chế định chế tất nhiên phải tùy thời canh cải nhưng có 36 lối canh cải , mà đổi ngọn bỏ gốc như kiểu nói trên là trốn khó làm dễ . Một đôi ông lại toan đặt chương trình chính trị trên 1 ý hệ ,1 thuyết lý nào đó đã được khiêng y nguyên từ ngoại quốc về .
Chính ở điểm này chúng ta cần phải nói đến 1 điều đáng quí khác nơi Khổng Tử đó là ông không có lập ra 1 ý hệ , 1 thuyết lý nhưng chỉ đưa ra 1 lối sống và khi người ta chịu theo thì thấy thoải mái dễ chịu trong mọi phạm vi cả chính trị lẫn văn hóa , và đó là lối sống của Viêm tộc Việt tộc từ ngàn xưa được lên khuôn 1 cách rất linh động để biến nó thành 1 cơ sở tinh thần của dân tộc .
Và đó là hồn Lạc Việt chứ không phải lý thuyết nào hết . Vì thế Khổng Tử là 1 trong những phát ngôn viên trung thực hơn hết của nền văn hóa Nho Việt , cho nên khi chúng ta khước từ Khổng Tử là liều mình khước từ cái hồn Lạc Việt , khước từ cái cơ sở tinh thần đã duy trì nước ta từ ngày khai quốc cho mãi tận nay .
Nhưng thế lực Đế quốc xâm lăng biết rằng bao lâu cái cơ sở ấy còn đứng vững thì không dễ gì mà các tư trào ngoại lai có thể hoành hành trong mảnh đất này . Vì thế mà óc Đế quốc xâm lăng dưới muôn vàn hình thái đã tìm đủ cách để phá cho bằng được . Họ đã thành công biến phát ngôn viên ấy thành 1 chú ba Tàu , biến Nho giáo thành chữ Hán , với bộ mặt chuyên chế , cổ hủ và phong kiến đến nỗi trong đám con cháu nhà không còn ai dám thừa nhận nữa và thế là cái hương hỏa từ ngàn xưa trở thành nơi hoang phế dậu đổ bìm leo . Văn hóa mà thiếu tướng giỏi , màu cờ , thì chỉ còn là mấy danh từ rỗng .
Dân tộc tính chỉ còn là những câu sáo , giá đừng ai nhắc tới còn bớt nhức con ráy . Vì những lý do sâu xa như thế nên nhà Tần , nhà Nguyên xưa , rồi đến thực dân và cá người Mác hiện nay tất cả đều chĩa mũi dùi đả kích vào Nho giáo . Giới trí thức tân học đã không nhận ra chỗ đó nên vô tình đứng vào phe mạnh , giúp cho óc thực dân . óc xâm lăng thành công mỹ mãn . Cái lầm lẫn lớn lao hơn hết của thế hệ trí thức vừa qua nằm ở chỗ đó .
&&&&&&
Ghi nhận : Thế nhưng cùng tắc biến ,biến tắc thông . Chính ngay tại Trung Quốc , đang bắt đầu 1 chiến dịch trở lại với Khổng Tử , vì tham ô và nhũng nhiễu tràn lan khắp giới lãnh đạo . Nên lý tưởng của Nho giáo , là do dân và vì dân , quân phân tài sản , bắt đầu mở ra kỷ nguyên hạnh phúc .
Chúng ta VN , chính thực là chủ nhân của Nho giáo , chả lẽ lại đi sau Trung Quốc ư ? Thế cho nên , nền giáo dục hãy sửa soạn cho ra đời những sách viết về Nho giáo … Bí kíp võ lâm là của ta , chả lẽ ta lại không biết cách xử dụng sao ? Trở về nguồn , là nhiệm vụ của toàn dân ,của chính chúng ta … Hãy nhanh chân lên …
&&&&&&
CHƯƠNG XVII – KHỔNG TỬ VỚI VIỆT NHO . ( p 311 )
&&&
Nếu hỏi trong số kẻ sĩ ai là người nổi nhất , thì câu thưa sẽ đồng thanh là Khổng Tử . Khổng Tử được suy tôn là Vạn Thế Sư Biểu , không ai chối cãi và cho tới mấp mí đầu thế kỷ 20 hễ nói đến văn hóa Viễn Đông là nói đến Khổng . Cũng như nước Tàu là nước của Khổng , đến nỗi các học giả Tây Âu chỉ có 1 tiếng duy nhất để chỉ Nho Giáo đó là Khổng Giáo ( chỉ có Confu-ciansme chứ không có Nhoisme ) .
Điều ấy nói lên cái uy thế mãnh liệt của Khổng Tử trên tâm trí người Viễn Đông trải qua hơn 20 thế kỷ . Trong lịch sử nhân loại chưa có 1 hiền triết nào đạt được uy tín lớn lao như vậy , cả về thời gian lâu dài lẫn số người chịu ảnh hưởng đông đảo . Mãi cho tới đầu thế kỷ 20 này thì Khổng Tử mới bị ruồng bỏ như 1 cái chi lỗi thời .
Điểm lỗi thời nhất là vì vào phe với vua quan phong kiến để miệt thị dân chúng mà Nho giáo kêu là tiểu nhân … Riêng đối với Việt Nam thì Khổng còn bị ruồng rẫy vì là người Tàu tức nhóm người luôn luôn có dã tâm xâm lăng và đồng hóa nước ta . Vì thế Khổng Tử bị trí thức mới coi như kẻ thù dân tộc …
Đại để đó là mấy lý do khiến Khổng Tử từ địa vị ông thầy có uy tín nhất trở thành 1 người xa lạ nếu không là thù địch nhất .Trong sách này chúng ta sẽ lần lượt xét lại mấy lý do trên xem có nền tảng tới đâu .
Trước hết Khổng Tử là người Tàu ? Câu nói này thường phát xuất do những người sính Tây , và chúng ta ngửi ngay thấy cái giọng kỳ thị chủng tộc của phương Tây ra sao . Kỳ thị chủng tộc thì đâu cũng có nhưng nặng nhất đến độ trở thành 1 chủ nghĩa thì là nét đặc trung của nền văn hóa Âu tây . Đến nỗi những người đã được tẩm nhuận trong bầu khí đó chiếu giải tâm trí họ vào cùng khắp , nghĩa là họ thấy bóng kỳ thị ở những chỗ không có kỳ thị hoặc không có đến mức như họ tưởng và không nhận ra đươc rằng nếu người Việt đáng gọi là đi theo ngoại lai vì học chữ Nho thì càng là ngoại lai hơn bội phần vì học chữ Tây , vì lẽ đơn sơ là Tây ở xa nước ta hơn nước
Tàu .
Nói khác nếu người Việt Nam theo Tàu đáng lên án thì người Việt Nam theo Tây càng đáng lên án gấp bội . Bởi vì người Tây thuộc chủng tộc khác hẳn , còn người tàu với ta chỉ khác về thị tộc , vì người Tàu cổ đại đã là nơi cư ngụ lâu đời của Viêm Việt . Số người Việt di cư xuống phía Nam lập ra nước Việt Nam hiện nay chỉ là 1 số nhỏ , rất nhỏ so với đại đa số người Việt còn ở lại trong nước Tàu để mà “ bị đồng hóa “ theo như các học giả thường viết , nhưng nếu họ đi sâu hơn thì chắc sẽ viết là “ ở lại để mà đồng hóa Hoa tộc “ .
Nói khác không phải Hoa tộc đồng hóa Việt tộc , nhưng chính Việt tộc đồng hóa Hoa tộc . Hay nói cho thật chính xác thì Hoa Việt đồng hóa lẫn nhau . Nhưng may thay vấn đề ai đồng hóa ai , cũng như vấn đề thị tộc chủng tộc càng ngày càng bớt quan trọng trong cái đà đi đến thống nhất của nhân loại , đến nỗi óc kỳ thị cũng đang bị kết án nặng nề ngay ở Tây phương nơi đã đẻ ra óc kỳ thị chủng tộc và khuynh hướng thống nhất cũng lại đang được cổ vũ mạnh nơi đây .
Nhờ đó chúng ta sẽ được thoát khỏi cái vũng bầy nhầy của 1 vấn đề vừa nan giải vừa vô ích . Nan giải vì trong Khổng Tử có bao nhiêu phần trăm máu Viêm tộc còn lại bao nhiêu máu Hoa tộc , ai mà biết nổi và có cần chi phải biết , ít ra cho chúng ta đang chú trọng đến mối liên hệ văn hóa mà hầu không kể chi tới dòng máu , vì nền văn hóa cố hữu của chúng ta đã không quan trọng hóa óc thị tộc như văn hóa Tây phương lúc trước , nên ta dành vấn đề đó cho mấy người khảo cổ .
Còn chúng ta hãy quay về xét bản chất văn hóa của Khổng Tử , và lúc ấy chúng ta bước vào 1 địa hạt không những ơn ích mà còn có sách vở tài liệu để làm tiêu điểm căn cứ .
Xét về phương diện này thì dễ thấy Khổng Tử hướng hẳn về văn hóa Phương Nam của Viêm Việt . Ông nói :” thuật nhi bất tác “ tức là công nhận rằng ông không sáng tạo ra gì mới cả nhưng chỉ là thuật lại cái Đạo cổ xưa , mà Đạo cổ xưa là gì nếu không là của Việt Nho , 1 đạo đã phát xuất từ phương Nam . Khi Tử Lộ hỏi về đức Cường thì ông phân biệt ra 2 thứ cường : 1 của phương Bắc ưa xông pha trận địa coi thường cái chết , 1 thuộc phương Nam ở tại “khoan nhu dĩ giáo bất báo vô đạo , Nam phương chi cường dã , quân tử cư chi “ .
Người quân tử phải ở lại , phải y cứ trên tinh thần phương Nam là “ Khoan nhu dĩ giáo “ . Đọc câu này xong tôi liên tưởng ngay tới câu chuyện Hùng Vương cống Vua Tàu 1 con chim Bạch Trĩ . Con Bạch Trĩ tìm ngành ngã về phương Nam mới đâu , vì đó có câu “ Việt điểu sào nam chi “ ( chim nước Việt đậu ngành phương Nam) . Bạch trĩ nói đây chỉ về những nhân tài Việt tộc tuy hoàn cảnh phải làm việc bên Bắc , nhưng lòng vẫn canh cánh hường về phía Nam , chính trong cái tiềm thức cộng thông đó mà Khổng Tử đề cao 2 sách Châu Nam , Thiệu Nam hết cỡ , đến nỗi với ông kẻ nào không đọc 2 thiên đó thì như người quay mặt vào tường chẳng thấy được chi .
Trong bài “ địa vị tiếng dân “ tôi đã nói đến giá trị 2 thiên này .Nó tối quan trọng và mạnh mẽ . Sở dĩ như vậy vì đã được trần liệt trong 1 cơ sở tinh thần gọi là Nho Giáo . Nho giáo chính là nhu giáo hay nhu đạo , tức là đạo của những người biết “ khoan nhu dĩ giáo , bất báo vô đạo “ . Đó là đạo của phương Nam , đạo của Viêm tộc , của Bách Việt , của Lạc Việt .
Chính họ đã âm thầm tác tạo ra nhu giáo , còn người đã lập thành nhu giáo,là những kẻ sĩ , trong đó có Khổng Tử . Nếu Khổng Tử với nhu giáo là 1 thì cả 2 với Viêm tộc Việt giáo cũng lại là 1 .( 2 cái tương ứng với cái thứ 3 thì cũng tương ứng với nhau ) .Cái thứ 3 là Nho giáo , 2 hạn từ kia là Việm Việt là Khổng Tử . Nếu Khổng Tử là Nho giáo , mà Nho giáo cũng là Viêm giáo ( khoan nhu ) thì Khổng Tử không chống Viêm tộc .
Và vì lý do sâu xa đó khi người ta đả kích Khổng giáo thì dễ lâm vào tai nạn đả phá Việt Giáo , và khi người ta thành công hạ bệ Khổng Tử thì cũng là thành công tước đoạt khỏi tay Viêm Việt cái cơ sở tinh thần đã từng giúp tiên tổ ta giữ nước , giữ nhà , giữ thân tâm của nòi giống , và cũng vì thế kể từ ngày đó các ý hệ ngoại lai tràn đầy vào nước nhà với các bộ mặt tự cao tự đại của quí tộc Tây phương . Đấy là 1 sự thực ê chề đang phơi mặt trước mắt chúng ta nên cần xét lại thấu triệt các mối liên hệ cũ .
&&&
Nét đặc trưng lớn lao hơn hết của Viêm tộc là quyền bính không trao vào tay quí tộc thế tập , nhưng là trao vào tay những người có tài có đức và gọi là truyền hiền hay là nhân trị ; ngược với Pháp hình tự Tây Bắc ưa võ . Với Khổng thì tuy Văn Võ đi đôi nhưng Văn phải ở trên , và tuy chấp nhận Vương triều để trị vì , nhưng quyền cai trị thì phải để cho những người có tài có đức như truyền thống của Viêm tộc , chứ không thể vào tay phái quyền quí thế tập như thói Hoa tộc .
Về sau chủ chương của ông đã thắng thế , cho nên văn minh nông nghiệp của thôn dân đã chống lại được văn minh thị dân có tính chất Công và Thương đượcghi dấu trong câu “ Sĩ , Nông , Công , Thương “ . Sĩ và Nông thuộc Viêm Việt , còn Công và Thương thuộc du mục . Nhiều học giả tố cáo Nho giáo ức Thương thì phần nào đúng , chỉ phiền là họ không biết rằng Thương gia đã gây nên biết bao chênh lệch trong xã hội, làm cho giàu nghèo quá xa cách , là điều đi ngược với thuyết “ quân phân tài sản “ của Viêm tộc . Nho giáo luôn luôn bênh vực thôn dân cũng vì lẽ đó .
Có lẽ nơi sanh quán và cả đến dòng tộc cũng giúp cho Khổng đi về phía nông dân , vì tổ tiên của ông là người nước Tống , rồi sau rời sang nước Lỗ . Vậy mà Tống , Lỗ và Trịnh vẫn được kể như 3 cột trụ của Trung Hoa đời Chu , gọi là Chư Hạ vì cả 3 đều có tiếng là bảo vệ văn hóa nông nghiệp phương Nam ( chữ Hạ chỉ phương Nam mùa hạ ) chống lại văn hóa du mục từ Tây Bắc . Có lẽ vì đó mà huyền thoại nói Thần Nông chôn táng tại nước Lỗ .
Pháp gia quen tố cáo Nho gia là nệ cổ thì trong thực chất có nghĩa là Nho gia đi với phe Viêm Việt đã có lâu đời trước khi Pháp gia của Hoa tộc đến sau . Đến sau nên gọi là Tân , vì thế Tân Pháp vẫn gắn liền với Hoa tộc đối với cổ tục đi với Viêm tộc . Nhưng vì ý thức chủng tộc đã không còn nên thay vì nhân danh Hoa tộc thì người ta đã nhân danh Tân Pháp để đả phá Viêm tộc lúc này đã được gọi là cựu pháp .
Chính đó là lý do giảng nghĩa tại sao Tần Hoàng chủ tâm phá nước Lỗ nhiều hơn đâu hết . Bởi Lỗ là quê hương của các tập truyền Viêm tộc , trong đó có chế độ chư hầu là 1 hình thái liên bang ,1 thể chế đi ngược hẳn với đường lối đế quốc của Tần Hoàng , bắt tất cả mọi nơi theo về 1 phép mà phép đó đặt nặng quyền cha và quyền nhà võ , vẫn thường đi đôi và gây rất nhiều chênh lệch , nên cũng tăng số nô lệ rất nhiều .
Đời Tần và Hán sơ nhiều nô lệ là do đó . Trái ngược hẳn với tinh thần Viêm tộc duy trì nền tự trị địa phương và theo lối cộng sản đại gia đình nên giảm bớt được cảnh chênh lệch trong xã hội rất nhiều . Đây cũng là chỗ nên trả lời thắc mắc tại sao Khổng Tử đề cao những ông vua thuộc Hoa tộc như Nghiêu Thuấn và Tam Đại nhất là nhà Chu “ Ngô tòng Châu “ .
Chúng ta nên nhớ rằng đến đời Khổng Tử thì ý thức chủng tộc đã hầu biến mất và do đó không còn thể nói nhà vua nào thuộc Hoa tộc hay Viêm tộc nữa > Những gia phả của các vua sau Hoàng Đế gặp trong sách vở đều không có gì bảo đảm mà chỉ nên coi là 1 lối gia phả người Hi Lạp xưa hầu hết gốc Thần minh tức cũng theo luật thấy sang bắt quàng làm họ .
Tuy nhiên ngay trong việc đề cao này ta cũng thấy tinh thần Viêm tộc nơi Khổng Tử . Chúng ta cứ giả thuyết là Nghiêu thuộc Hoa tộc , còn Thuấn lá nông dân ở Lôi Trạch ( Kinh Thư Thuấn Điển ) thì rõ rệt Thuấn thuộc Viêm tộc , Mạnh Tử kêu là “ Đông di chi nhân “ . Vậy mà Nghiêu dám trao quyền cho Thuấn thì đó quả là 1 cuộc cách mạng tận gốc vì bỏ họ cha để theo tục họ mẹ và vì tính chất cách mạng đó nên việc trao quyền của Nghiêu đã trở thành tiêu biểu chó 1 đức tối hệ đó là ấp nhượng cũng gọi là Thiện nhượng tức quyền bính trao vào tay người hiền .
Nhờ đó mà 2 đời Nghiêu Thuấn được đề cao là thời cực trị . Sau này ấp nhượng có được thực thi hay chỉ còn là hình thức thì đó là chuyện khác , nhưng tiêu biểu ấp nhượng là Nghiêu Thuấn và cũng vì lẽ đó nên cuộc trao quyền cho Thuấn đã gây nên những chống đối kịch liệt về phí Hoa tộc . Đến khi ông Thuấn lên ngôi đã làm 1 việc rất có công đối với Viêm tộc được nhắc sơ qua trong việc ông khử tứ hung nhưng lại đưa 16 nhân tài về giúp nước .Một việc mà Nghiêu đã không làm được .” Nghiêu bất năng cử , Thuấn thần Nghiêu ,củ bát khải , sử chủ Hâu Thổ , dĩ qui bách sự “ .( Tả Truyện ) .( Nghiêu không cử hiền nổi , nhưng khi Thuấn ra giúp Nghiêu thì đã làm được là đưa 8 người tài năng ra sửa sang việc tế Hậu Thổ , trông coi trăm sự ) .
Như các ông Tiết , Cao Dao , Ích Tắc … Vậy là Thuấn hơn Nghiêu rồi . Nghiêu đáng ca ngợi vì nhường quyền vào tay Thuấn . Còn Thuấn vì có tinh thần Viêm tộc nên đề cao hiền tài hơn là dòng tộc , nên đưa người tài đức ra giúp nước . Con số 8 hay 16 ( cử bát khải , cử thập lục tướng ) chỉ là con số huyền sử , như Si Vưu có 8 cánh thì đây có 8 người tài ( bát khải và bát nguyên là 16 ) .Số 16 là tự nhân với tứ hung hàm nghĩa rằng khi đã đầy tứ hung đi mà cải hóa ( như ông Cổn vì bị đày nên cải hóa ra chim ) thì có hiệu năng gấp 4 .
Viêm tộc bị Hoàng Đế đày ra 4 phía thế mà khi gọi về tham chánh lại tỏ ra tài đức gấp bội . Những suy tư này đựa trên văn hóa chứ không dựa trên dòng tộc được nữa . Vì chủng tộc đã pha đi pha lại , sử liệu cũng đã bị xáo trộn nhiều lần , nhưng tiêu điểm của văn hóa thì khá rõ . Và ta nhận ra tất cả các vua được Khổng Tử đề cao thì đều tiêu biểu cho 1 số đức tính của Viêm tộc , ví dụ vua Nghiêu trước hết nói đến lịch pháp ( Xem Nghiêu điển mở đầu Kinh Thư ) .
Lịch đi với Trời là yếu tố Viêm Việt , Vua Vũ vì được ban cho Hồng Phạm mà Hồng phạm là bản tóm nền minh triết của Hà Lạc tức của Lạc Việt . Ông Chu Công được đề cao vì ông nhiếp chính , mà nhiếp chính là 1 cách để quyền cao trị trong tay người tài đức thường là có tuổi ( theo đúng tục lệ Viêm tộc ) .Vì thế có thể nói mỗi khi Khổng Tử đề cao 1 nhân vật nào là ông đề cao 1 đức tính của Viêm Việt .
Ca ngợi ông Thuấn tận tình với việc nước , không chiếm công vi tư , cả đến quyền bính cũng không trao vào tay con ; còn với dân thì gần gũi mà tôn kính “thân nhi tồn , an nhi kinh “ ( Lễ Ký ) . Vẽ ra ông Thuấn nặng chữ hiếu hơn chữ trung … tất cả đó là 1 lối hạ nhẹ pháp gia khinh dân , để đề cao Viêm Việt thân dân .
Đấy mới chính là lối tranh đấu cho nền văn hóa chân thực mà không xét chi tới nơi phát xuất nữa . Hoa tộc hay Viêm tộc hết quan trọng , điều quan trọng là nhơn tộc , nghĩa là hễ phụng sự con người thì bất cứ từ đâu mà tới nền văn hóa đó đáng được đề cao .
Bây giờ chúng ta bàn đến vấn đề thứ 2 là thân dân . Một số học giả cho rằng Nho giáo rất khinh miệt dân chúng như được ông Granet ghi chú . Khi ta xét lại câu nói đó mới nhận ra rằng 1 số học giả lớp trước ăn nói rất liều lĩnh không biết phân biệt chi hết nên nhiều khi nói lên những điều trái ngược hẳn với sự thực .
Sự thực là trong gầm trời này chưa có giới thức giả nào thân dân cho bằng Nho Sĩ . Sở dĩ 1 số học giả không nhận ra vì trong hàng ngũ sĩ phu cũng có những người như thế , mà phần đông là Pháp gia , họ chủ trương duy trì giai cấp quí tộc thế tập … và thường gọi dân bằng những tên miệt thị như dân đen .( lê dân kiềm thủ ) .
Có lẽ những chữ này do những người xâm lăng có tóc vàng , hay đỏ như người Đột Khuyết . Ngược lại với Pháp gia là Lão Trang chủ trương xóa hết mọi giai cấp để mọi người hoàn toàn bình đẳng . Nhưng đó lại là 1 quá đáng khác vì bên ngoài nghĩa địa và ao tù làm chi có hoàn toàn bình đẳng ? Vì thế chủ trương hoàn toàn bình đẳng chỉ là 1 ước mong không tưởng , quá trớn và chính vì đi quá trớn nên nhiều lần Lão Trang trở thành hàng xóm của Pháp gia trong việc khinh dân .
Chúng ta có thể nói Nho gia chân chính đã tránh được điểm này vì giữa 2 chủ trương cực đoan trên : giữa giai cấp và chối bỏ giai cấp . Nho giáo chủ trương phẩm trật . Phẩm trật nhận có trên có dưới nhưng lại không cứng nhắc như giai cấp , mà chỉ là 1 lối phân công , tùy theo thị hiếu và hoàn cảnh của mỗi người mà không theo thể chế .
Vì vậy khi hoàn cảnh đổi thì cũng đổi thế đứng mà không bị 1 hàng rào luật lệ nào cản ngăn , thí dụ từ vị trí tì thiếp có ngưới đã lên đến Hoàng Hâu , từ nô bộc đã lên đến Hầu Tước : không có hố chia cách nào cả . Mạnh Tử đã phản đối Pháp gia đề cao vua quan bằng câu nói quen thuộc là “ dân vo quí , quân vi khinh “ .Vì câu này mà nhiều học giả cho là Mạnh Tử có óc dân chủ ngược với Khổng Tử bao giờ cũng tôn quân .
Sự thực thì cả 2 cùng 1 chủ trương , có khác nhau chẳng qua chỉ ở đợt nhấn : Khổng Tử ôn hòa , Mạnh Tử thì cạn tàu ráo máng , có thế thôi . Nói cho trúng hơn nữa thì Mạnh Tử chưa gần dân bằng Khổng Tử , Và cũng chính vì ông thân dân nên lời ông không bao giờ thổ lộ ra thói mị dân . Giới trí thức với lối nhìn thô kệch tưởng vậy là miệt thị dân , nhưng có ngờ đâu không tâng bốc dân chính vì đã đi với dân cách thành tín và do đó lời ông đã trở thành minh triết khi hiểu minh triết là những lời bàn về những gì thân cận con người hơn hết ( thiết vấn nhi cận tư ) .
Muốn thấy rõ tinh thần “thân dân “ đó chỉ việcđem những đề tài học hỏi trong các sách triết đang được dạy ra mà so sánh sẽ thấy liền sự khác biệt .Triết Tây dầu là ở cấp trung học hay những sách viết cho sinh viên khoa học nghĩa là những người không chuyên về triết cũng toàn bàn những chuyện xa xôi không ăn nhằm chi tới đời sống dân chúng , đến nỡi học xong không ai biết dùng để làm gì . Còn đây thì thiết cận ngay vào thân tâm ,tu thân , tề gia , trị quốc .
Một số danh từ và ý niệm như quân tử , tính danh ,lễ nghĩa … trước kia phái quí tộc muốn dành làm của riêng ,đến sau cũng được Khổng Tử và môn đệ biến cải cho trở thành của chung toàn dân .( Granet ) .
Một số học giả cho là Nho sĩ về phe Vương triều thì điều ấy chỉ thực cho 1 số cá nhân , hoặc cho Hán Nho quá nhiều chất đề cao vua chúa . Nếu ai hỏi vậy tại sao xuyên qua hơn 2000 năm lịch sử Nho Giáo lại cứ bảo vệ Vương triều , bênh vực nền quân chủ để dân bị đàn áp và khi bị đàn áp quá thì cùng lắm chỉ nổi lên mở đường cho 1 Vương triều mới xuất hiện để rồi lại bị đàn áp …rồi lại đạp đổ để đặt ra 1 Vương triều mới cứ thế trải qua bao ngàn năm mà Nho Giáo không sáng nghĩ ra được 1 thể chế mới như dân chủ để đưa dân ra khỏi vòng luẩn quẩn .
Thiết tưởng đó là 1 điều có lý trên giấy tờ , trong thực trạng còn phải kể tới nhiều chuyện , thí dụ : tâm thức dân chưa đạt tới , kỹ nghệ chưa phát triển đủ , nên nếu có cưỡng đổi thì cũng chẳng hơn gì .Tự ngày Trung Hoa , Việt Nam phá đỗ Vương Quyền cho tới nay hỏi người dân Tàu , dân Việt đã được thêm bao nhiêu quyền lợi , bao nhiêu hạnh phúc hay chỉ có 1 chuỗi những chữ rỗng đủ loại : nào là tự do , bình quyền , tòa án nhân dân …
Vì thế chỉ có những người thiếu từng trải mới nghĩ rằng hễ đổi được thể chế là đổi được tình trạng . Đó là những ý nghĩ học mót của Tây phương đề cao luật lệ mà không chú trọng đến con người .
Các nhà chính trị của chúng ta cũng đang theo lối bánh xe đó bằng dốc toàn lực vào việc viết ra qui chế chính đảng … với các lý luận đủ thứ , các dự án đồ sộ mà không thấy đưa ra 1 cơ sở tinh thần để giáo dục dân . Giáo dục là điều quan trọng hơn hết bị bỏ bê . Xin đừng lầm mở mang học vấn với văn hóa . Văn hóa chân thực phải có định hướng , có lý tưởng mới cải hóa , cảm hóa được con người .
Mà đó mới là then chốt . Bỏ người đi lo về luật lệ thể chế suông là duy vật . Không phải chỉ theo Mác mới là duy vật . Thể chế định chế tất nhiên phải tùy thời canh cải nhưng có 36 lối canh cải , mà đổi ngọn bỏ gốc như kiểu nói trên là trốn khó làm dễ . Một đôi ông lại toan đặt chương trình chính trị trên 1 ý hệ ,1 thuyết lý nào đó đã được khiêng y nguyên từ ngoại quốc về .
Chính ở điểm này chúng ta cần phải nói đến 1 điều đáng quí khác nơi Khổng Tử đó là ông không có lập ra 1 ý hệ , 1 thuyết lý nhưng chỉ đưa ra 1 lối sống và khi người ta chịu theo thì thấy thoải mái dễ chịu trong mọi phạm vi cả chính trị lẫn văn hóa , và đó là lối sống của Viêm tộc Việt tộc từ ngàn xưa được lên khuôn 1 cách rất linh động để biến nó thành 1 cơ sở tinh thần của dân tộc .
Và đó là hồn Lạc Việt chứ không phải lý thuyết nào hết . Vì thế Khổng Tử là 1 trong những phát ngôn viên trung thực hơn hết của nền văn hóa Nho Việt , cho nên khi chúng ta khước từ Khổng Tử là liều mình khước từ cái hồn Lạc Việt , khước từ cái cơ sở tinh thần đã duy trì nước ta từ ngày khai quốc cho mãi tận nay .
Nhưng thế lực Đế quốc xâm lăng biết rằng bao lâu cái cơ sở ấy còn đứng vững thì không dễ gì mà các tư trào ngoại lai có thể hoành hành trong mảnh đất này . Vì thế mà óc Đế quốc xâm lăng dưới muôn vàn hình thái đã tìm đủ cách để phá cho bằng được . Họ đã thành công biến phát ngôn viên ấy thành 1 chú ba Tàu , biến Nho giáo thành chữ Hán , với bộ mặt chuyên chế , cổ hủ và phong kiến đến nỗi trong đám con cháu nhà không còn ai dám thừa nhận nữa và thế là cái hương hỏa từ ngàn xưa trở thành nơi hoang phế dậu đổ bìm leo . Văn hóa mà thiếu tướng giỏi , màu cờ , thì chỉ còn là mấy danh từ rỗng .
Dân tộc tính chỉ còn là những câu sáo , giá đừng ai nhắc tới còn bớt nhức con ráy . Vì những lý do sâu xa như thế nên nhà Tần , nhà Nguyên xưa , rồi đến thực dân và cá người Mác hiện nay tất cả đều chĩa mũi dùi đả kích vào Nho giáo . Giới trí thức tân học đã không nhận ra chỗ đó nên vô tình đứng vào phe mạnh , giúp cho óc thực dân . óc xâm lăng thành công mỹ mãn . Cái lầm lẫn lớn lao hơn hết của thế hệ trí thức vừa qua nằm ở chỗ đó .
&&&&&&
Ghi nhận : Thế nhưng cùng tắc biến ,biến tắc thông . Chính ngay tại Trung Quốc , đang bắt đầu 1 chiến dịch trở lại với Khổng Tử , vì tham ô và nhũng nhiễu tràn lan khắp giới lãnh đạo . Nên lý tưởng của Nho giáo , là do dân và vì dân , quân phân tài sản , bắt đầu mở ra kỷ nguyên hạnh phúc .
Chúng ta VN , chính thực là chủ nhân của Nho giáo , chả lẽ lại đi sau Trung Quốc ư ? Thế cho nên , nền giáo dục hãy sửa soạn cho ra đời những sách viết về Nho giáo … Bí kíp võ lâm là của ta , chả lẽ ta lại không biết cách xử dụng sao ? Trở về nguồn , là nhiệm vụ của toàn dân ,của chính chúng ta … Hãy nhanh chân lên …
&&&&&&
Chủ Nhật, 9 tháng 9, 2007
viết về CVA
Vài lời thơ thẩn
Bạn còn nhớ không năm 1972 , năm cuối cùng ở ngôi trường thân yêu Chu Văn An , chúng ta như những đàn chim , bay đi khắp 4 phương trời , người học tiếp đại học , kẻ bỏ ngang , người đi lính , có người đi du học ngoại quốc ...
Nhưng đến năm 1975 , thì giai đoạn khó khăn mới bắt đầu , nhiều người đi học tập cải tạo ,
nhiều người di tản , vượt biên
có người đã nằm xuống
có người vẫn kiên trì làm việc kiếm sống bằng mọi nghề từ nhỏ đến các nghề cao cấp
có người đang học đại học
cũng có 1 nhóm bạn thường xuyên gặp nhau
nhưng cũng có nhóm bạn không liên lạc
nhưng bây giờ , sau bao nhiêu thăng trầm , đau khổ , sau bao nhiêu thất bại hay có nhiều người thành công tốt đẹp
chúng ta đã tụ họp cùng nhau , và san xẻ cho nhau những thông tin quý báu , hay san xẻ cho nhau những khó khăn ,san xẻ cho nhau những tài chánh nho nhỏ ,cho ai còn khó khăn
một con én không làm nên mùa xuân , nhưng chúng ta , những người cùng chung năm ra trường 1972
gồm nhiều lớp A , B ... và nếu có thể sẽ liên kết với nhóm bạn lớp huynh trưởng và lớp đàn em ...70,71 và 73 , 74 ...
bởi thế , chúng ta , ai là người may mắn , có công ăn việc làm ổn định và nếu có thể , giúp đỡ cho những người khác 1 công việc , hay giúp cho con cháu việc làm ...
chúng ta hãy giới thiệu về công việc của mình , cần nhân công hay cần tiêu thụ sản phảm , hay có thể khám chữa bệnh cho anh em , với giá cả phải chăng ... hay là trung tâm giới thiệu việc làm , hay liên kết làm ăn trong mọi ngành nghề
chúng ta có thể làm được , và cũng là để tồn tại trong 1 xã hội bon chen , hãy đến với nhau bằng tất cả tấm lòng , hãy chia xẻ nhau những kiến thức , chia xẻ công việc , nếu có
và hãy nối vòng tay lớn
trên thế giới truy cập<> tìm CAV sẽ thấy các trang Web của dân Chu van An.
Nhưng vẫn chưa có 1 trang chính thức ? Dành cho dân Cva Saigon ?
Bạn còn nhớ không năm 1972 , năm cuối cùng ở ngôi trường thân yêu Chu Văn An , chúng ta như những đàn chim , bay đi khắp 4 phương trời , người học tiếp đại học , kẻ bỏ ngang , người đi lính , có người đi du học ngoại quốc ...
Nhưng đến năm 1975 , thì giai đoạn khó khăn mới bắt đầu , nhiều người đi học tập cải tạo ,
nhiều người di tản , vượt biên
có người đã nằm xuống
có người vẫn kiên trì làm việc kiếm sống bằng mọi nghề từ nhỏ đến các nghề cao cấp
có người đang học đại học
cũng có 1 nhóm bạn thường xuyên gặp nhau
nhưng cũng có nhóm bạn không liên lạc
nhưng bây giờ , sau bao nhiêu thăng trầm , đau khổ , sau bao nhiêu thất bại hay có nhiều người thành công tốt đẹp
chúng ta đã tụ họp cùng nhau , và san xẻ cho nhau những thông tin quý báu , hay san xẻ cho nhau những khó khăn ,san xẻ cho nhau những tài chánh nho nhỏ ,cho ai còn khó khăn
một con én không làm nên mùa xuân , nhưng chúng ta , những người cùng chung năm ra trường 1972
gồm nhiều lớp A , B ... và nếu có thể sẽ liên kết với nhóm bạn lớp huynh trưởng và lớp đàn em ...70,71 và 73 , 74 ...
bởi thế , chúng ta , ai là người may mắn , có công ăn việc làm ổn định và nếu có thể , giúp đỡ cho những người khác 1 công việc , hay giúp cho con cháu việc làm ...
chúng ta hãy giới thiệu về công việc của mình , cần nhân công hay cần tiêu thụ sản phảm , hay có thể khám chữa bệnh cho anh em , với giá cả phải chăng ... hay là trung tâm giới thiệu việc làm , hay liên kết làm ăn trong mọi ngành nghề
chúng ta có thể làm được , và cũng là để tồn tại trong 1 xã hội bon chen , hãy đến với nhau bằng tất cả tấm lòng , hãy chia xẻ nhau những kiến thức , chia xẻ công việc , nếu có
và hãy nối vòng tay lớn
trên thế giới truy cập<> tìm CAV sẽ thấy các trang Web của dân Chu van An.
Nhưng vẫn chưa có 1 trang chính thức ? Dành cho dân Cva Saigon ?
vài lời thơ thẩn
Mỗi ngày một bài thơ .
Thời xưa có câu : nhất quỉ , nhì ma , thứ ba học trò …không phải là sự chê bai hay nói xấu , mà là 1 sự năng động , đổi thay . con người khác con vật ở chỗ là mỗi ngày đều đổi mới , mới lạ , như dòng sông chảy mãi không ngừng ! nếu đứng im , thì đó là sự chết .
Xưa , ghét sự thay đổi , quân sử thần tử …, tất cả những gì ở trên ban ra là đúng , không được thay đổi ! Nên lúc nào cũng gò ép học trò , là tương lai của đất nước ,vào 1 quĩ đạo cứng nhắc cô lập …Và đó là chính sách Bế Quan Tỏa Cảng , như Trung Hoa và cả Việt Nam xưa . Làm cho đất nước bị nước ngoài xâm lăng !
Và bây giờ , lứa tuổi 9X , 8X , nghĩ gì và làm gì ? Bọn chúng là học sinh , sinh viên và sau cùng sẽ lãnh đạo đất nước ! Đúng vậy thôi ! tại sao chúng lại thích thay đổi , hay tỏ ra sự thay đổi ! Đó chính là sự tự khẳng định mình ! Không ai có thể nghĩ dùm , làm dùm ! Chỉ trừ người bị tê liệt mà thôi !
Chính vì thế , mới có sự phát minh , tìm tòi . Còn không có phát minh hay tìm tòi , thì đó là sự ngưng trệ , bất động , và sau cùng đi vào cõi chết ! Có thế thôi !
Ăn thua là người lớn ,kẻ lãnh đạo , phải tìm ra 1 sân chơi ,1 lối đi rộng rãi , không gò bó , áp bức , luật lệ cứng nhắc hay học thuộc lòng những sáo ngữ xa xưa !!!
Chúng sẽ tự tạo ra 2 con đường , hay 3 ,4 gì đó , tùy theo khả năng và sự lanh lợi của chúng !
Hoặc chùng tự hủy thân , trở thành ù lì ngu si đần độn , vô cảm trước cuộc sống sinh động ,và sau cùng là tiêu trầm …không có ích gì cho nhà nước hay thế giới ! Vì chúng như là 1 cục bột ,vô tri vô giác , bảo đi là đi , bảo đứng là đứng .
Chỉ có 2 trường hợp đó thôi .
Nhưng may mắn thôi , vì chúng không lẽ nào tự hủy cuộc đời của chúng .nhưng chúng phải tím lối thoát ! Không lẽ cứ mặc mãi 1 cái áo cũ xì , nhỏ bé , khi chúng lới lên ừng ngáy …
Nếu cấm đoán hay gò chúng hướng về 1 phía …cho dù hường về đông , về tây , nam bắc gì đó . chúng cũng không thích . Chúng thích theo con đường chúng tự tạo ra . Không cần biết là con đường đó đau khổ hay hạnh phúc ! Nhưng cũng cứ đi !
Trên trang báo hôm nay ,10-09- 2007 thanh thiếu niên Trung Hoa , tự tạo cho mình 1 thứ chữ mới , để đối thoại cùng nhau , tránh sự nhòm ngó của các bâc cha ông ??? tại sao thế ? tại sao chúng không dùng chữ cũ ? Ở Việt Nam cũng thế thôi ! Cũng có 1 số chữ mới chế ra .
Lý do hình như đơn giản ! Vì chúng muốn có 1 tiếng nói riêng , tự do , không áp đặt , tự do phát biểu ý kiến , Và như các lý do trên , vì cha ông không cho chúng tự do phát biểu ý kiến riêng , kiểm sóat chúng . Không cho chúng thay đổi mọi thứ cho phú hợp với thời đại mới . nên chúng phải thoát ly , tạo nên 1 sân chơi riêng biệt , tự do hơn và vui vẻ hơn ! Có thế thôi !
Nếu bảo chúng là vô đạo đức , là đi ngược đạo lý cha ông , thì cũng đúng thôi .
Nhưng chúng bảo , chúng ta theo chính sách bế quan tỏa cảng thì sao? Lại đi vào vết bánh xe đổ khi xưa !
Ai đúng ai sai ? Lịch sử sẽ phán xét . Như ta đang phán xét lịch sử , là thời Tự Đức , có chính sách bế quan tỏa cảng , làm VN tụt hậu 100 năm ? Mai sau có chắc lịch sử sẽ phán xét ta như thế không ? Hay khen ngợi chúng ta thông minh sáng suốt ?
Bởi thế ,câu Nhất quí nhì ma thứ ba học trò , bao giờ cũng đúng .
&&&
Thời xưa có câu : nhất quỉ , nhì ma , thứ ba học trò …không phải là sự chê bai hay nói xấu , mà là 1 sự năng động , đổi thay . con người khác con vật ở chỗ là mỗi ngày đều đổi mới , mới lạ , như dòng sông chảy mãi không ngừng ! nếu đứng im , thì đó là sự chết .
Xưa , ghét sự thay đổi , quân sử thần tử …, tất cả những gì ở trên ban ra là đúng , không được thay đổi ! Nên lúc nào cũng gò ép học trò , là tương lai của đất nước ,vào 1 quĩ đạo cứng nhắc cô lập …Và đó là chính sách Bế Quan Tỏa Cảng , như Trung Hoa và cả Việt Nam xưa . Làm cho đất nước bị nước ngoài xâm lăng !
Và bây giờ , lứa tuổi 9X , 8X , nghĩ gì và làm gì ? Bọn chúng là học sinh , sinh viên và sau cùng sẽ lãnh đạo đất nước ! Đúng vậy thôi ! tại sao chúng lại thích thay đổi , hay tỏ ra sự thay đổi ! Đó chính là sự tự khẳng định mình ! Không ai có thể nghĩ dùm , làm dùm ! Chỉ trừ người bị tê liệt mà thôi !
Chính vì thế , mới có sự phát minh , tìm tòi . Còn không có phát minh hay tìm tòi , thì đó là sự ngưng trệ , bất động , và sau cùng đi vào cõi chết ! Có thế thôi !
Ăn thua là người lớn ,kẻ lãnh đạo , phải tìm ra 1 sân chơi ,1 lối đi rộng rãi , không gò bó , áp bức , luật lệ cứng nhắc hay học thuộc lòng những sáo ngữ xa xưa !!!
Chúng sẽ tự tạo ra 2 con đường , hay 3 ,4 gì đó , tùy theo khả năng và sự lanh lợi của chúng !
Hoặc chùng tự hủy thân , trở thành ù lì ngu si đần độn , vô cảm trước cuộc sống sinh động ,và sau cùng là tiêu trầm …không có ích gì cho nhà nước hay thế giới ! Vì chúng như là 1 cục bột ,vô tri vô giác , bảo đi là đi , bảo đứng là đứng .
Chỉ có 2 trường hợp đó thôi .
Nhưng may mắn thôi , vì chúng không lẽ nào tự hủy cuộc đời của chúng .nhưng chúng phải tím lối thoát ! Không lẽ cứ mặc mãi 1 cái áo cũ xì , nhỏ bé , khi chúng lới lên ừng ngáy …
Nếu cấm đoán hay gò chúng hướng về 1 phía …cho dù hường về đông , về tây , nam bắc gì đó . chúng cũng không thích . Chúng thích theo con đường chúng tự tạo ra . Không cần biết là con đường đó đau khổ hay hạnh phúc ! Nhưng cũng cứ đi !
Trên trang báo hôm nay ,10-09- 2007 thanh thiếu niên Trung Hoa , tự tạo cho mình 1 thứ chữ mới , để đối thoại cùng nhau , tránh sự nhòm ngó của các bâc cha ông ??? tại sao thế ? tại sao chúng không dùng chữ cũ ? Ở Việt Nam cũng thế thôi ! Cũng có 1 số chữ mới chế ra .
Lý do hình như đơn giản ! Vì chúng muốn có 1 tiếng nói riêng , tự do , không áp đặt , tự do phát biểu ý kiến , Và như các lý do trên , vì cha ông không cho chúng tự do phát biểu ý kiến riêng , kiểm sóat chúng . Không cho chúng thay đổi mọi thứ cho phú hợp với thời đại mới . nên chúng phải thoát ly , tạo nên 1 sân chơi riêng biệt , tự do hơn và vui vẻ hơn ! Có thế thôi !
Nếu bảo chúng là vô đạo đức , là đi ngược đạo lý cha ông , thì cũng đúng thôi .
Nhưng chúng bảo , chúng ta theo chính sách bế quan tỏa cảng thì sao? Lại đi vào vết bánh xe đổ khi xưa !
Ai đúng ai sai ? Lịch sử sẽ phán xét . Như ta đang phán xét lịch sử , là thời Tự Đức , có chính sách bế quan tỏa cảng , làm VN tụt hậu 100 năm ? Mai sau có chắc lịch sử sẽ phán xét ta như thế không ? Hay khen ngợi chúng ta thông minh sáng suốt ?
Bởi thế ,câu Nhất quí nhì ma thứ ba học trò , bao giờ cũng đúng .
&&&
Thứ Tư, 5 tháng 9, 2007
Sấm Trạng Trình
Trích theo X –café - Kim Mai .
Sấm Trạng trìnhMộ Vua Hùng thứ VI (phá giặc Ân) trên đền Thượng núi Hùng. Đời vua Hùng được đại địa Phong Châu Bạch Hạc bền vững ít nhất ngũ bách niên, qui phục thiên hạ, vỗ về trăm họ yên vui, con dân hưng phát đời đời, mãi tới thế kỷ III trước TL mới suy vi. Lạc Long Quân vị vua đầu của Lạc Việt mở nước bằng bốn Vĩ tích: diệt Ngư Tinh biển Đông (trị Thủy), phá Mộc tinh Xương Cuồng giả dạng cây Chiên đàn ngàn năm (khai Rừng phá núi), lấy Âu Cơ từ phương Bắc mang về Nam (chống Bắc phương), triệt Hồ tinh chín đuôi giả dạng Bạch Y Tản Viên Quốc Thần dụ dỗ thiếu niên trai gái sa đọa vào hang Cáo (diệt yêu tinh ma quỷ). Nhà Thục tiếp nối rời đô xuống Cổ Loa được có 50 năm thì mất. Sau hơn một nghìn năm, mãi tới đời Ngô Quyền (939 - 944) mới giành lại được độc lập, quốc đô lúc này vẫn ở Cổ Loa. Phải chờ tới năm 968 Đinh Bộ Lĩnh mới thật sự dựng lên Đế nghiệp tiếp nối sự nghiệp vua Hùng. Truyền thuyết phong thủy kể rằng vua Đinh được ngôi huyệt kết đế vương "mã đầu đới kiếm hữu sát" bộc phát nhưng không bền. Nguyên động Hoa Lư có một cái đầm ban đêm ánh hồng quang bốc lên chiếu thẳng vào sao Thiên Mã, thầy địa lý Tầu đi dò long mạch từ Tuyên Quang, Hưng Hóa xuống tới phủ Đại Hoàng thấy sông sâu nước xoáy mạnh biết dưới đầm kết huyệt quí liền nhờ cậu Đinh Bộ Lĩnh lặn xuống xem xét, khi lặn xuống đáy cậu sờ thấy hình một con ngựa đá đứng dưới đầm liền lên nói lại với thầy địa lý, thầy cả mừng đưa cho Bộ Lĩnh một nắm cỏ bảo lặn xuống lần nữa đưa bó cỏ non nhử vào mồm ngựa xem sao. Bộ Lĩnh lặn xuống đưa bó cỏ trước mồm ngựa liền thấy nó há miệng ngoạm lấy. Khi lội lên nói rõ chuyện thầy Tầu biết chắc là huyệt đại quí thủy mã đang linh liền trọng thưởng cho Bộ Lĩnh rồi hẹn ngày khác trở lại. Bộ Lĩnh rất tinh khôn liền trở về nhà mang bó xương cha vẫn để trên gác bếp rồi bí mật lặn xuống táng vào mồm ngựa. Từ đấy mỗi ngày Bộ Lĩnh một khôn lớn mạnh mẽ phi phàm, đánh đâu thắng đấy. Ít năm sau thầy Tầu trở sang thấy Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành thủ lĩnh anh kiệt biết ngay là họ Đinh đã đoạt ngôi huyệt quí, thầy rất căm tức liền dụng mưu trả thù. Thầy nói với Bộ Lĩnh là ngựa phải có gươm mới toàn mỹ nên bảo Bộ Lĩnh lặn xuống đặt một thanh gươm bên cổ ngựa. Bộ Lĩnh không nghi ngờ liền lặn xuống đầm gác gươm lên cổ ngựa. Quả nhiên từ đấy Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp hết 12 sứ quân xưng là Vạn Thắng Vương rồi lên ngôi Hoàng đế. Được đúng 12 năm thì cả hai cha con đều bị ám sát chết vì kiếm để đầu ngựa tất sinh sát khí ! Câu chuyện sau khi tước bỏ huyền thoại, có thể còn lại điểm đất Hoa Lư có hình con ngựa gọi là "thủy mã huyệt", sau này mộ vua Đinh đặt trên núi Mã Yên có nghĩa là trên yên ngựa . Cũng có thể các đời vua Đinh, Tiền Lê (Lê Hoàn), Hậu Lê (Lê Lợi), Chúa Trịnh, Nguyễn, đều phát xuất ở miền đất gần nhau: Hoa Lư, Lam Sơn, không cách xa sông Mã (cũng lại là ngựa), đều gốc người Mường, nên hưởng long mạch sông Mã chăng ? Tới đời nhà Lý thì khoa phong thủy đã rất thịnh hành qua các nhà sư Mật tông. Đất Cổ Pháp do sư Định Không đặt tên là đất phát Đế vương lâu bền, nhà Lý với tám vị vua (Lý Bát Đế) là triều đại liên tục dài nhất trong Việt sử sau đời Hùng, được 215 năm (1010 - 1225). Có hai thuyết ngoại sử về đại địa họ Lý: một là ông thân sinh Lý Công Uẩn ngã xuống giếng trong khu rừng Báng bị chết, sau mối đùn lên thành ngôi huyệt đại phát; hai là bà mẹ Lý Công Uẩn đi quanh quẩn trong rừng Cổ Pháp hốt nhiên chết, kiến mối xông lên kết thành mả cao 7 thước được chỗ đất tốt chung linh. Khi lên ngôi vua về yết lăng, Lý Thái Tổ trông thấy cây cối xanh tốt, loài chim bay liệng cảm động rơi nước mắt, Vua sai đo quanh mỗi bên vài mươi thước làm cấm địa, sau gọi là Thọ lăng (Việt Sử Tiêu Án). Có lẽ chuyện bà mẹ chửa hoang nhẩy xuống giếng tự tử sau khi sinh Công Uẩn thì hợp tình lý hơn, dù sao ngôi huyệt ở giếng trong rừng Báng là một huyệt kết, có tám gò ở chung quanh nở ra như hình hoa sen tám cánh nên nhà Lý truyền được tám đời vua. Công Uẩn được sư Lý Khánh Vân nuôi (xưa nay con hoang mang gửi gấm nhà chùa là chuyện thường, ngoại truyện lại nghi là một sa môn tư tình làm bà Phạm thị mang thai, có thuyết nói sa môn nặng nghiệp ấy chính là sư Vạn tức Vạn Hạnh !), sau lại được theo học với sư Vạn Hạnh nên trở thành một vị vua hiền đức. Có thể tin rằng sư Vạn Hạnh có ân tình sâu nặng với nhà Lý nên đã để đất tái phát cho họ Lý sau một ngàn năm (xem phần Sấm Vạn Hạnh), "Lý đi rồi Lý lại về" là câu đồng dao chỉ có thể truyền ra sau khi Vạn Hạnh để đất Bảo sơn thiên tử xuất. Chữ Lý gồm ba chữ thập, bát, tử, hợp thành, Lý Công Uẩn ở ngôi 18 năm (thập bát) 1010 - 1028, sinh ra ở chùa Ứng Tâm nên chùa có tên nôm na là Chùa Dặn (dặn đẻ !), tại làng Đình Bảng bây giờ. Sách Đại Việt Sử Lược là cuốn sử cổ nhất của Việt Nam, được viết vào đời Lý, chép nhiều chuyện rồng xuất hiện trong cung bên cạnh việc rồng hiện với mây ngũ sắc khi thiên đô ra Thăng Long. Đời Lý Nhân Tôn (1066, mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan) vua là con cầu tự, sử chép ngài có tướng "Nhật giác long nhan" tức xương trán nổi lên như như hình chữ nhật, hai tay buông dài quá đầu gối, là tướng thiên tử. Trong đời vua Lý Nhân Tôn, 56 năm ở ngôi, vua làm lễ tắm tượng Phật (giống như pháp môn Tây Tạng), tế núi Tản Viên (tổ sơn), lại có đại danh tướng Lý Thường Kiệt phạt Tống, bình Chiêm (số Tử Vi Lý Thường Kiệt có sao Thái Dương bị Triệt nên là số hoạn quan), Chân Lạp triều cống... là một thời đại vinh quang của Đại Việt. Vua Nhân Tôn không có con nên lập cháu là Dương Hoán làm Thái Tử, ngày Dương Hoán chào đời là ngày sư Đạo Hạnh hóa thân, nên có chuyện cho rằng Thái tử là Từ Đạo Hạnh hóa sinh. Tiếp theo nhà Lý là nhà Trần, một dòng họ xuất thân từ nghề đánh cá, trên sông nước từ vùng duyên hải Hạ Long đến Nam Định, trước ở vùng An Sinh, Đông Triều (sau này các vua Trần trở về đây tu hành tại núi Yên Tử), sau rời xuống Tức Mạc, gần cửa Tuần Vường, ngã ba sông Cái, huyện Mỹ Lộc. Theo truyền thuyết, một thầy địa lý Tầu đi tầm long từ tổ sơn Tam Đảo, qua đất Thăng Long rồi xuống phương Nam, thấy gò đống tụ tập biết là đúng hướng nhưng rồi không thấy vết tích long mạch đâu nữa ! Thầy địa lý đi tiếp đến một con sông mạch nước chẩy xiết , qua bên kia sông thấy một ngọn núi đột ngột hiện lên, thầy vui mừng nói "ai ngờ đất đế vương lại lạc xuống quãng bình điền !". Sau đó thầy để cuộc đất quí ấy cho Nguyễn Cố nhưng Nguyễn Cố là người bất nhân lật lọng đem trói thầy địa lý ném xuống sông để khỏi trả 100 quan tiền. Đúng lúc ấy thuyền đánh cá họ Trần tình cờ đi qua vớt lên được. Để cảm ơn cứu mạng thầy địa lý mang mộ tổ họ Trần táng thay vào. Đây là đất phát đế vương, mặt trước minh đường ngã ba sông mênh mông mặt nước, đằng sau gối vào voi phục, hai bên cờ kiếm la liệt, huyệt nằm vào đúng phương vị "Thổ phúc tàng kim", ngồi phương Càn trông chữ Tốn, kiểu đất này thầy địa lý đoán rằng "Phấn đại yên hoa đối diện sinh, tất dĩ nhan sắc đắc thiên hạ" nghĩa là "son phấn yên hoa bày trước mặt, hẳn vì sắc đẹp lấy giang sơn" (Công Dư Tiệp Ký tr. 75). Mãi ba đời sau, đất mới ứng phát ra Trần Cảnh có tướng mũi rồng mắt phượng, Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng rồi lên ngôi mở đầu nghiệp vua 188 năm (1225 - 1407). Người sau nói long mạch họ Trần bị đứt vì mang đào một con sông từ cửa sông Cái xuống tới xã Đại Đường; cuối cùng vua Trần Nghệ Tôn nằm mơ thấy Xích Chủy (chữ Nho tên Hồ Quí Ly là xích chủy có nghĩa là mỏ đỏ) sẽ đoạt ngôi vua vì Nghệ Tôn sinh năm Dậu là Bạch kê (gà trắng) tất bị mỏ đỏ hồ tinh cắn chết ! Họ Trần phát ra những nhân vật xuất chúng như Hưng Đạo, Quang Khải, những ông vua hiền triết (philosopher kings) như Thái Tôn, Nhân Tôn...biết đem cái bình dị thực tế của lớp dân đánh cá lồng vào cái cao siêu của đạo pháp đại hùng đại lực, nên trước đại thắng Mông Cổ, sau chiếm gần hết Chiêm Thành bằng đạo binh nhân nghĩa gọi là đô "Tỏa Kim Cương" vừa hàm ý sắc bén của kim cương vừa hàm ý lan tỏa Phật pháp kim cương thừa. Chính vua Nhân Tôn đã đi chân đất mà giảng giải Thập Thiện cho dân chúng, lại lập nên thiền môn Trúc Lâm Yên Tử khai phát và quy kết tinh thần dân tộc. Vua còn nạp phi con gái pháp sư người Tây Tạng, một vị sư "đã 300 tuổi, có thể đi trên mặt nước, thu lục phủ ngũ tạng lên ngực...", đời vua Minh Tông cũng có sư Bồ Đề Thất Lý từ Ấn qua, vị này cũng có thể ngồi nổi trên mặt nước... Xem như thế tới đời Trần, thiền phái Mật Tông, Yoga vẫn còn ảnh hưởng và Phật giáo chưa bị Tống Nho làm suy yếu lệch lạc như thời Hậu Lê trở về sau. Một vấn đề luân lý thường được nêu ra về nhà Trần là vấn đề loạn luân, trong họ lấy lẫn nhau để giữ cơ nghiệp không cho lọt vào họ khác, thậm chí Trần Thủ Độ ép cả vua Thái Tông lấy vợ của anh đang mang thai để chắc chắn có người nối nghiệp. Có thể họ Trần rất tin số Tử Vi và chắc có người tinh thông khoa này nên xắp xếp việc vợ chồng theo lý số, bất chấp liên hệ gia tộc, miễn là hợp tuổi để sinh quý tử. Khoa Tử Vi nhà Trần còn truyền đến bây giờ, môn phái này đoán số rất chính xác, dựa trên vòng sao Thái Tuế, Lộc Tồn... để tính đại tiểu sự. Đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng được thờ cúng ngay từ lúc còn sống (đền Sinh Từ) cho tới sau khi chết, như một bậc Thánh, sinh ngày 8 tháng 4 năm Mậu Tuất, giờ Ngọ, và qui thần vào ngày 20 tháng 8, năm Canh Tý (1300). Số Tử Vi của ngài Hỏa mệnh, Thân Mệnh đồng cung ở Mùi, vô chính diệu, đắc Nhật Nguyệt chiếu Mệnh, hội Thiếu Âm Thiếu Dương, thêm Tả Hữu Khoa Quyền Khôi Việt, Thanh Long, Long Đức, là số siêu nhân, đứng giữa trời đất thanh thiên bạch nhật, uy quyền chỉ huy vạn dặm, tuyệt đỉnh thông minh. Tới đời Lê, từ thế kỷ XV (1428 - 1527) tới vua Lê chúa Trịnh chúa Nguyễn (1674 - 1775) thế kỷ XVII - XVIII, đất nước chuyển sang một đại chu kỳ 500 năm, lúc thịnh lúc suy, loạn lạc nhiều hơn thái bình, vương đạo vẫn còn nhưng thánh đạo thì hết, anh hùng vẫn phát sinh nhưng trường thế thì mất, cuộc đất Việt Trì Tam Đảo châu thổ sông Hồng bước vào chu kỳ suy và cuộc đất Nam phương bắt đầu thịnh. Lê Lợi, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn... đều là người thiểu số Mường, một bộ tộc rất gần gũi với người Việt, không khác gì người Việt cổ thời Hùng Vương, cũng có huyền thoại một bọc trăm trứng, cũng có trống đồng, cũng có chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh và cũng thờ Thánh Tản Viên. Vùng tập trung người Mường kéo dài từ miền núi Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa tới Nghệ An, Quảng Bình... Phùng Hưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành đều gốc người Mường, cho nên người Mường là người Lạc Việt ở vùng núi non, còn người Việt là người Lạc Việt ở đồng bằng, cả hai đều chung một nguồn gốc lịch sử khởi đi từ vua Hùng. Tằng tổ Lê Lợi là Lê Hối vốn làm nghề thầy cúng, đi chơi núi Lam Sơn thấy đàn quạ bay lượn tụ họp, cho là đất tốt liền dời nhà đến đấy. Tổ Lê Lợi tên Đinh, bà tổ tên Quách (Đinh, Quách, Bạch, Hoàng...là những tên thông thường trong tiếng Mường), thân mẫu họ Trịnh. Lê Lợi là con út, khi chưa sinh thường có con cọp đen gần làng, khi sinh ra rồi thì con cọp đen biến mất, mọi người cho Lê Lơi là hóa thân cũa con cọp đen ! Trong sách Lam Sơn Thực Lục, Nguyễn Trãi ghi "vua Lê vai tả có bảy nốt ruồi, lông lá đầy người, tiếng như chuông lớn, ngồi như hổ..." có lẽ tướng lông lá như vậy nên mới có chuyện hổ thành người chăng ? Nhưng đất phát lên đại nghiệp lại nằm ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi, hình quả ấn, tả có núi Chí Linh,, trong có gò Tiên Ban, trước có nước Long Sơn, Long Hồ nước xoáy...nhà sư họ Trịnh từ Ai Lao để cho họ Lê miếng đất quí đó, lại đoán rằng đất này con cháu phải phân cư, nếu cải táng thì sẽ trung hưng năm trăm năm nữa. Trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh đầu tiên với 635 thủ hạ, Lê Lợi từng bị giặc đuổi phải chạy trốn vào bụi rậm, cầu xin "một vị thần áo trắng" (một người đàn bà mặc áo trắng, tay đeo xuyến vàng, thoa vàng, mới chết, hiển linh thành con chồn trắng làm lạc đường chó săn của quân Minh), lại vớt lưới được lá gươm "thuận thiên" và nhặt được cán vừa liền nhau, có lẽ là thanh gươm trời cho rồi sau này bị Thần Rùa đớp lại tại Hồ Hoàn Kiếm, Thăng Long. Vua Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, giờ Tí, Kim Mệnh. Số Tử Vi Mệnh Thân đồng cung ở Dậu, vô chính diệu, có Bạch Hổ tọa thủ (phải chăng vì vậy có chuyện nói ngài là con hổ hóa thân ?), Thái Tuế ở Quan chiếu lên, Tứ Linh, Thanh Long Hóa Kỵ Âm Dương ở Quan Lộc, thêm Song Lộc Quyền hợp chiếu, đắc cách sát tinh độc thủ, anh hùng, không thọ (49 tuổi) và không hiền từ. Như vậy nhà Lê cũng bắt đầu với những huyền sử truyền kỳ dân tộc : một nhà sư để đất dấy phát, một vị nữ thần áo trắng (Quan Âm ?, Thánh mẫu ?...), một thần Kim Qui. Chỉ tiếc rằng công nghiệp của ông vua khai sáng triều đại này bị lu mờ vì chuyện giết hại hầu hết các công thần gốc tích châu thổ sông Hồng như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, ngay cả quân sư Nguyễn Trãi cũng bị tống giam, sau lại thả ra nhưng không được tin dùng. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc có sự căng thẳng mang màu sắc địa phương, giữa nhóm triều đình hầu hết là gia tộc họ Lê, gốc Mường, ít học, võ biền, và nhóm sĩ phu miền Hồng Hà. Mãi tới đời Lê Thánh Tôn, một ông vua hiền tài do chính Nguyễn Trãi lập kế nuôi dưỡng, bảo vệ cả mẹ (Ngô Thị Ngọc Dao) và con (Tư Thành) trong chùa chiền và thuyền bè tại vùng vịnh Hạ Long để tránh khỏi sự truy lùng của nhóm Thị Anh và Thái Tử Băng Cơ, nên nhà Lê mới lại thuần hóa vào dòng sinh mệnh châu thổ sông Hồng và sau 38 năm tại ngôi vua Lê Thánh Tôn đã để lại một ấn tượng tốt trong dân chúng và sĩ phu khiến cuối đời Lê, dù suy yếu mà vẫn trung hưng lên được. Tuy vậy sau này xẩy ra vụ Kiêu binh (thế kỷ XVII), bọn lính Thanh Nghệ cậy công làm càn, là chuyện đã manh nha từ khoảng cách giữa hai khối dân từ hai địa vực khác nhau ấy. Vụ tru di tam tộc Nguyễn Trãi không những vì lòng ghen giữa mấy người đàn bà mà còn mang nặng thù hận của nhóm thân tộc địa phương họ Lê với bậc khai quốc trưởng thượng, nó không xẩy ra ở một hai đời mà còn xẩy ra ở nhiều đời vua Lê khác. Xét chung, triều Lê không có vương đạo như triều Lý, Trần và về sau đức độ còn thua kém cả nhà Mạc. Cuối đời Lê, các ông vua Quỷ như Lê Uy Mục, vua Lợn như Lê Tương Dực, làm cho sứ thần nhà Minh (vốn biết tướng số) phải phê bình : An Nam tứ bách vận vưu trường Thiên ý như hà giáng quỷ vương ! nghĩa là : Bốn trăm năm vận nước Nam lâu dài Sao ý trời lại giáng xuống quỷ vương ? và biết trước loạn vong sẽ tới. Sứ thần nhà Minh nói vào khoảng năm 1505 - 1509, đã biết trước vận quân vương Việt Nam dài độ 400 năm nữa tức là vào khoảng 1900 là lúc mất nước vào tay Thực dân Pháp. Bốn trăm năm này không phải là hồng vận quốc gia, vì trời giáng quỷ vương với trư vương ! lời nói có vẻ tiếc cho nước Nam. Nhưng 99 năm sau Lê Lợi, một kết tập cuối cùng của đất sông Lô núi Tản chung quanh nhà Mạc và Trạng Trình lại mở ra một sách lược mới cho dân tộc nhằm phục hoạt lại tinh thần Lý, Trần. Mạc Đăng Dung đoạt ngôi của vua quỷ vua lợn không phải là chuyện bất nhân, hay quá lắm, cũng chỉ như Trần Thủ Độ lấy ngôi vua nhà Lý cho nhà Trần. Nhưng vì họ Mạc là quan võ, xuất thân từ nghề đánh cá (giống họ Trần) nên bị khối quan văn Tống Nho khinh thường và chống đối : nhà Lê, dù vua Lê Thánh Tôn rất anh minh, đã đi lạc sang Nho giáo độc tôn, quên cái gốc "văn ôn võ luyện" từ đời Hùng đến Đinh, Lê, Lý, Trần, để chìm đắm vào cái học khoa bảng từ chương "tiên học lễ hậu học văn" làm sa đọa cả hàng ngũ trí thức. Nhưng gốc tích Mạc Đăng Dung là gốc văn học chói lọi của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, mà chính Mạc Đĩnh Chi lại là dòng dõi Trạng Nguyên Mạc Hiển Tích nguyên Lại Bộ Thượng Thư triều Lý. Như vậy về huyết thống Mạc Đăng Dung không có gì thua kém nhà Lê. Mạc Đĩnh Chi (tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung) có bà mẹ đi qua khu rừng cây um tùm vùng Chí Linh, Hải Dương, bị con khỉ lớn hiếp nên đẻ ra ông mặt mũi xấu xí như khỉ, thân phụ tức quá vào rừng giết được con khỉ đực, sau thấy xác khỉ bị mối đùn lên thành một cái mồ rất lớn biết là đúng huyệt phát nên khi chết dặn con cháu táng mình vào chính mộ con khỉ đó. Về sau Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cũng được táng ngay ở chân mộ khỉ đực, bên cạnh mộ của hai ông bố ! Khi đi sứ sang Tầu, Mạc Đĩnh Chi tuyệt đích thông minh linh lợi nên vua Tầu nhà Nguyên phải khen tặng cho ông chức lưỡng quốc Trạng nguyên, sứ thần Hàn quốc phải phục và mời ông sang chơi nước Hàn, lại tìm một cô gái nước Hàn gả cho ông làm thiếp. Nhìn tướng mạo quan Trạng quá xấu, người Tầu quyết tìm ra ẩn tướng, và họ đã theo dõi ông vào tận cầu tiêu để khám phá ra ẩn tướng là cục phân Mạc Trạng Nguyên hình vuông như quân cờ ! Họ lại gửi thầy địa lý sang xem mộ tổ tiên họ Mạc và khi tới mộ "khỉ đực" thì thầy điạ lý nói đấy chính là ngôi đất kết phát ! chỉ tiếc là thủy không tụ mấy, thiếu hổ thủy, nên phát quí chứ không phát phú. Trong thời gian đi sứ Tầu, văn quan Trung Quốc ra câu đối An, nữ khứ : thỉ nhập vi gia Chữ An bỏ chữ nữ thay chữ thỉ là heo vào thì thành chữ gia. Ông đối lại : Tù, nhân xuất : vương lai thành quốc Chữ Tù bỏ chữ nhân, cho chữ Vương vào thì thành chữ quốc. Người Tầu dựa vào Mai Hoa Bốc chiết tự mà đoán rằng con cháu sau này tất có người làm vua, nhưng vì chữ vương viết chữ đơn (王) nên giữ nước không được bền. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, phong ông tổ Mạc Đĩnh Chi làm Linh Khánh Đại Vương, xây điện Sùng đức lên nền nhà cũ, lại đắp đàn cao để vua quan tế lễ. Khi còn là một anh chàng đánh cá, dung mạo Mạc Đăng Dung rất phi phàm nên bà mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn giỏi tướng số phải đoán là người thanh niên đó sau này công danh tột bực. Chữ Mạc theo chữ Nho có chứa chữ Đông nên bài Sấm của sư Vạn Hạnh có câu: Chấn cung kiến nhật tức: Phương Đông mặt trời mọc chỉ nhà Mạc lên ngôi thiên tử (xem phần Vạn Hạnh). Nếu đúng ý như vậy thì nhà Mạc là một triều đại có vận số sau nhà Lê, mà ngay nhà Nguyễn về sau cũng không được sấm Vạn Hạnh nhắc tới. Nhà Mạc làm vua tại Thăng Long được 65 năm, chạy lên Cao Bằng được 75 năm nữa, tổng cộng 140 năm, không phải là ngắn ngủi. Nhà Lê bị dứt tới 65 năm, quanh quẩn ở một vùng Thanh Hóa từ 1543 - 1592, vậy mà các sử sách sau này lại coi là chính thống liên tục, thì quả là bất công cho nhà Mạc. Nếu lại nói Mạc Đăng Dung tự trói mình để cầu hòa với nhà Minh là nhục quốc thể (như Trần Trọng Kim kết án trong VN Sử Lược), thì lúc đó ông không phải là vua, chỉ là Thái Thượng Hoàng dùng khổ nhục kế dâng mấy động núi tượng trưng để tránh họa xâm lăng do chính nhà Lê sang Tầu cầu cứu ! Hành vi đó không nhục nhã tai hại bằng việc vua quan Lê Chiêu Thống sang van lậy nhà Thanh viện binh sau này ! Hơn nữa nhờ tránh voi mà nhà Mạc mang lại yên ổn cho đất nước, chỉ vì nhóm thủ cựu phò Lê và phe địa phương xứ Thanh cát cứ gây loạn tranh dành liên miên nên nhà Mạc mất hẳn cơ hội phục hồi một Đại Việt theo truyền thống Lý, Trần. Nhà Mạc biết trọng người hiền như Nguyễn Bỉnh Khiêm, biết giữ gốc dân bản thực dụng bình dân qua việc xây cất các đình làng trên toàn quốc, đào tạo nhân tài với tỷ lệ nhiều nhất trong lịch sử Nho học Việt nam: 22 khóa thi Đình với 485 vị Tiến sĩ trong 65 năm, khôi phục chùa chiền trong tinh thần Tam giáo đồng tôn (mà nhà Lê đã đánh mất), đã có thời thịnh trị "của rơi không ai nhặt" như đời anh quân Mạc Đăng Doanh (1530 - 1540) v..v.. Những đời sau, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, rồi Triều Nguyễn, không thấy nhiều tư liệu về mồ mả phong thủy. Họ Trịnh được ngôi đất "phi vương phi bá, quyền khuynh thiên hạ" nhưng chỉ được 8 đời rồi sẽ bị tai họa. Nguyên ngôi đất này là cái hố, mẹ Trịnh Kiểm bị dân làng trừng phạt ném xuống vì Trịnh Kiểm mỗi ngày đều đi ăn trộm gà để nuôi mẹ. Bà mẹ bị chết tình cờ lại nằm đúng huyệt phát ! Lọt vào giữa Trịnh, Nguyễn, có ngôi sao Nguyễn Huệ rực lên ít năm, có người như Lê Quí Đôn cho là được đất phát ở Tây Sơn, Bình Định, nhưng 4 đời trước họ Nguyễn Tây Sơn gốc họ Hồ ở Nghệ An, vậy có thể vẫn thừa hưởng long mạch đất Hồng Lam, long mạch vùng này vốn không lâu bền. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sinh ngày 5 – 5 - Nhâm Thân, giờ Tuất, số Tử Vi Kim mệnh. Thất sát và Thái Tuế đường đường đóng tại Mệnh, thêm Tử Phủ, Tham Phá, Tứ Linh, Quyền, Mã.. hợp chiếu, là số thành công vũ bão, Phúc bị Tuần, Đà La, Hóa kỵ, Mệnh Song Hao, nên không thọ. Họ Trịnh phát xuất từ Bồng Thượng, miền trung du Thanh Hóa, Trịnh Kiểm từng đánh thuốc độc giết bố vợ là Nguyễn Kim, lại tàn nhẫn giết luôn anh vợ là Nguyễn Uông, sau này con cháu dường như tản mát về làng Cự Đà gần Hà Nội, đình làng này có hai pho tượng quay lưng vào nhau nên tương truyền người trong làng không thân thiết tương trợ. Họ Nguyễn được đất ở Gia Miêu Thanh Hóa, tổ họ này là Nguyễn Kim, người đứng ra tìm con cháu nhà Lê để phục hưng triều đại, vợ Nguyễn Kim người Hải Dương cùng quê với Trạng Trình, nên Trạng Trình đã nể tình chỉ đường sống cho con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng vào đất "Hoành sơn" dung thân để tránh lưỡi gươm của Trịnh Kiểm. Biết rằng phong thủy vùng này có thể hưng vượng một cõi nên họ Nguyễn đã nghe Trạng Trình kéo nhau vào Thuận Quảng lập nghiệp. Một chi họ Mạc chạy trốn Lê Trịnh cũng theo vào, con gái Khiêm Vương Mạc Kính Điển trở thành bà Chúa Sãi (1613 - 35). Mãi tới ông vua cuối cùng là Bảo Đại long mạch họ Nguyễn mới tận. Năm 1945 Bảo Đại kể lại "cây xà ngang nóc điện tự nhiên gẫy đổ rơi xuống" là điềm rất độc, báo hiệu một triều đại chấm dứt và chấm dứt luôn nghìn năm quân chủ Việt Nam. Từ sau 1945, sử Việt đi vào giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn nhiễu nhương chiến tranh, mạt pháp. Đứng về phương diện phong thủy lý số, vẫn tiếp tục khí mạch độc loạn đi về phương Nam từ đời Lê - ông CT Hồ Chí Minh (1954 - 69) gốc Nghệ An cùng các phò tá đều đa số phát tích từ đất Trường Sơn, miền Nam các ông TT Ngô Đình Diệm (9 năm), TT Nguyễn Văn Thiệu (9 năm) người Quảng Bình, người Phan Thiết, đều khởi từ khí mạch vùng núi, đất hẹp sông ngắn, nên không được lâu bền. Ông Nguyễn Văn Thiệu ở đuôi chót Trường Sơn, là huyệt phát cuối cùng của giải đất này, chấm dứt một chu kỳ long mạch Nam tiến trên đất Chiêm Thành cũ. Từ sau, long mạch đất Việt lại khởi sang một chu kỳ khác, phương hướng khác, báo hiệu đại hồng vận "thiên tử xuất tại Bảo Sơn Bảo Giang", phục hoạt vương đạo Hùng Vương Viêm Việt.
kimmai
TẬP - Phụ bản của Cư Sĩ Minh Điền LỜI NÓI ĐẦU -- -- -- ---- Vì sao có quyển sấm nầy ra đời ? - Không dám vọng ngữ , quyển sấm nầy cần phải ra đời vì nó quý báu bằng tất cả kho tàng của một nước Đại Việt và hơn nữa, đã đến giai đoạn cần thiết của thời cuộc hiện tại mà lời sấm đã ghi đúng đắn từng li từng tí mỗi một cuộc biến cố xảy ra trong nước. Bắt đầu từ Cổ Am bị tàn phá cho đến ngày lịch sử cách mạng tháng 8, kế đến giai đoạn Hoàng Đế Bảo Đại về nước, mỗi mỗi đều nhốt tất cả trong 487 câu thơ mà Đức Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một bầu tâm sự đầy nhiệt huyết nhả ngọc phun châu cho vạn cổ anh hùng suy nghiệm. Hởi các chí sĩ anh hùng trong thiên hạ ! Chớ nên quá ư căn cứ vào khoa học mà chê những truyện sấm giảng là hoang đường, vì có những sấm giảng và sấm giảng.Hoang đường là lời nói vu vơ, ảo mộng không biết bao giờ xuất hiện như lời đã nói. Còn quyển sấm nầy viết từ 400 năm nay mà mỗi mỗi đều ứng nghiệm ngoài đời thực tế cho đến những cái tên riêng của những người chủ trương trong mấy phong trào quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều ứng nghiệm ghi rõ . Nó là môn khoa học huyền bí vì Trạng chuyên môn lý số nhờ ở bộ " Thái Ất Thần Kinh " mà ghi chép ra chứ nó đâu phải ngất ngưởng như bóng với đồng. Nếu không phải khoa học, sao cụ lại được tặng câu " Annam lý học hữu học Trình truyền " của Tàu là một nước bao giờ cũng tự hào rằng mình cao hơn hết về khoa lý số. TỰU TRUNG : Cũng vì lòng từ bi, bác ái mà đức Trạng có quyển sấm nầy ra cốt để cho các vị trượng phu anh hùng xem lấy mà tránh cái nạn cốt nhục tương tàn. Cũng vì lòng yêu nước thiết tha mà Đức Trạng có quyển sấm nầy ra là cốt để cho trong tôn giáo, ngoài xã hội xem lấy biết nẻo tôn phò " lòng trung nghì ai nhớ cho tinh " và cũng vì lòng hiếu kỳ mà soạn giả khởi đọc quyển sấm nầy hồi 1930 sau cuộc biến động Cổ Am do Quốc Học Tùng San xuất bản. Soạn giả cũng không nệ hà tài hèn hiến cho bạn đọc những đoạn dịch chánh bản và phụ trương mong rằng thích đúng trong muôn một. Viết ở Sài-Thành mùa đông năm Mậu Tí 1948. Cư Sĩ MINH ĐIỀN PHẦN THỨ NHẤT Dục thức thánh nhân xứ Đa xuất ứng Bảo giang Dục thức thánh nhân hương Thủy lam bảo trung tàng Dục thức thánh nhân tính Mộc hạ liên đinh khẩu Dục thức thánh nhân diện Tu tẩm trương cú kiến Giang nam nhị thủy huyện Tại sơn vô hổ lang Thất thập nhị hiền tướng Phụ tá thánh quân vương Phá điền thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành. * * * ......................... ......................... Tư tâm dục thức thánh nhân diện Lưởng biên bàn ngạt tùy nhất khối Thủ túc chánh vương tam lương tự. PHẦN THỨ HAI Cuộc đời ai dễ biết đâu Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên Quan làng ỷ thế ỷ quyền Dân khôn giả dại mới yên phận mình Mặc ai chia rẽ thị khinh Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn Ta tin ta mới đặng an Luận bàn bè bạn chỉ đàng cho nhau Việc người thì mặc người âu Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ Muốn yên mồn lặng như tờ Luận bàn việc nước thì khô xác hình Bởi đời quốc thể bù nhìn Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời Lương dân than khổ đòi nơi Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng Tham quan hại nước lợi riêng cho mình Biết chi là ám với minh Sớm ưa trưa ghét dân tình đời ni Kim tiền quyền thế tương tri Không quyền không thế người khi ngu đần Chớ hà hiếp nhớ siêng cần Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an Nghèo nàn bổng chốc giàu sang Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn Bởi đời toàn lũ vô hồn Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền Mở miệng thì rặc đồ điên một dòng Chừng nào cây sắt trổ bông Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi Trung thần ái quốc dễ khi Phản thần mãi quốc nên ghi để đời Thức thời quốc sử bỏ rơi Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại mình Vô quân vô tướng vô binh Trung không cùng chúa cúng kinh ích gì Chừng nào lú mọc trên chì Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu Trí thời giả điếc giả ngu Khôn thời giả dại mà tu lấy mình Cầm quyền toàn lủ yêu tinh Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời Mua quan bán tước lấy lời Hại dân hại nước coi trời như không Bì trung cốt nịnh rặc ròng Kết phe kết đảng giết giòng phải nguy Nồi da xáo thịt ngộ thay Miễn mình béo bở mặc ai ốm gầy Cáo kia mượn thế hại cầy Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu Động tâm Thượng Đế dạy ru Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần Gió sầu mưa thảm cõi trần Thiên luân địa chấn quân thần nó xem Canh tân sực nức mùi hèm Mhâm quý bằng lặng ngoại binh đem vào Giáp thời thấy rõ binh đao Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan Thiên tai chiến sự đa đoan Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời Phản thần bán nước khi trời Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền * * * Nhứt hữu liên sơn nhứt hữu bình Tam giang khí địa nhụ giang kinh Tu châu tai lạc thế châu khổ Ngu lại hườn chung khổ hại mình *** Xác dân xung tận cung đình Thiên oai chấn nổ luật hình ban ra Mười phần mất bảy còn ba Mất hai còn một mới ra thái bình Trục kia chọi với đồng minh Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời Ra oai đánh dẹp mọi nơi Năm châu bốn bể thây phơi chập chùng Mùa xuân gió bấc lạnh lùng Cua kình trở gọng về cùng lũ dê Cuộc đời như thể trò hề Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền Sình ương khó nướng xào chiên Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề Ra đi thì khó nỗi về Xe kia hết bánh thả rề sông trôi Chừng nào Chợ Lớn hết vôi Bề Đông cá đặt cuộc đời lao đao Lò rèn thiếu thép rèn dao Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi Chợ đen vốn một lời mười Gạo châu củi quế lời người than van Vải bô giá sánh bằng vàng Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê ... Tiết trời đánh đổ bông huê Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu Theo Âu nên phải lo âu Mấy ai hiểu nghĩa Bá Di-Thúc Tề Khỉ đàn vừa gặp lũ dê Bắc trung phải chịu thảm thê họa đầu Đại bàng xung phá đài lầu Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang Rồi Nam cũng chịu lầm than Phương đông ba tỉnh phải mang họa sầu Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỉ ma Khỉ đàn gặp cặp mảng xà Trăng tròn thiếu một thì ta xuống hầm Yêu đương cũng phải lạc lầm Sáu nơi khói lữa sấm gầm Sài môn Nghèo nàn không có quách chôn Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi Nhưng mà họa có đâu thôi Bồng con bế cái nổi trôi đầy đàng Đến hồi quốc vận lâm nàn Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền Càng ngày càng đảo càng điên Dân ta như thể đàn chiên đánh vồn Ô hô giống khéo giống khôn Vay thời phải trả xác hồn lìa xa Thịt rơi xương nát máu sa Thầy tăng chẳng chịu ở nhà phù tang Sưu cao thuế nặng ta mang Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân Thân dậu lánh việc nương thân Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây Khỉ bầy bị một gà khi Cuộc đời như vậy tham chi mà bòn Gà mừng gặp lúa túc con Miễn con no dạ mất còn kể chi Cái năm chiến họa loạn ly Mưa to gió họa hại gì tham quan Nhơn dân khốn khổ đa đoan Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai Tu hành hiền hậu chết hoài Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng Cơ trời định vậy chớ than Tương vong yêu nghiệt hành tàng đấy ư ! Đầu xuân gà gáy hăm tư Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ Thiên cơ máy tạo huyền vi Tuần hườn máy tạo ai thì có hay Nực cười cho lủ vô tài Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần Xuân phân cho đến thu phân Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi Buồn buồn tủi tủi vui vui Tiếng thì để tiếng muốn lui lắm lần Rồi đây bày tỏ trung cang Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu Văn minh cơ khí đủ điều Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành Phong luân họa giáng lôi oanh Kết phe lập đảng tranh giành thế ni Năm châu nổi sóng một khi Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo Mưa dầu nắng lửa sấm reo Hai loài xâu xé họa gieo dân lành Đảng dân đại bại tan tành Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng Tu binh mãi mã chiêu hùng Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà Rồi sau sanh sự bất hòa Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường Non cao bể cả đôi đường Phân ranh biên giới tỏ tường mới an .... Vầng hồng rọi khắp bốn phang Tây phang cuốn gió tìm đàng đào vong Bập bồng Tần quốc bập bồng Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan Hải hồ rửa máu nghỉ an Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu Thân gà dạ khỉ đấy chừ Thì là ngọn lửa mới thu dịu lần Kỳ phang thay đổi cuộc trần Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru Quân minh dân sự ôn nhu Heo kia thong thả ngao du đầy đàng Chuột mừng gặp cảnh bình an Trâu kia thong thà nghêng ngang đồn điền Cọp rày làm chúa lâm điền QUÂN THẦN CỘNG LẠC MIÊN MIÊN CỬU TRƯỜNG. TRẦN CÔNG nãi thị phúc tâm GIANG HỒ SỬ SĨ đào tiềm XUẤT DU Tướng thần hệ xuất Y CHU Thứ ky PHỤC KIẾN ĐƯỜNG NGU thi thành Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA. * ; * * Phần Sấm Ký Bạch Vân Thi Tập và các phụ trương của Cư Sĩ Minh Điền xuất bản cách nay gần 60 năm, may man xin ghi lại đoạn kết nhân những ngày cuối cùng của năm 2006. Nếu hữu duyên , khoảng Nửa Năm Tiên Giới sắp tới, Chư Huynh Đệ Tỷ muội cùng chiêm nghiệm một kiệt tác khác : KIM CỔ KỲ QUAN để liễu ngộ thế nào là : NƯỚC NAM NHƯ THỂ CÁI BẦU NGÀY SAU CÁC NƯỚC ĐÂU ĐÂU CŨNG TÙNG. (KimMai trong X- Café)
__________________
Sấm Trạng trìnhMộ Vua Hùng thứ VI (phá giặc Ân) trên đền Thượng núi Hùng. Đời vua Hùng được đại địa Phong Châu Bạch Hạc bền vững ít nhất ngũ bách niên, qui phục thiên hạ, vỗ về trăm họ yên vui, con dân hưng phát đời đời, mãi tới thế kỷ III trước TL mới suy vi. Lạc Long Quân vị vua đầu của Lạc Việt mở nước bằng bốn Vĩ tích: diệt Ngư Tinh biển Đông (trị Thủy), phá Mộc tinh Xương Cuồng giả dạng cây Chiên đàn ngàn năm (khai Rừng phá núi), lấy Âu Cơ từ phương Bắc mang về Nam (chống Bắc phương), triệt Hồ tinh chín đuôi giả dạng Bạch Y Tản Viên Quốc Thần dụ dỗ thiếu niên trai gái sa đọa vào hang Cáo (diệt yêu tinh ma quỷ). Nhà Thục tiếp nối rời đô xuống Cổ Loa được có 50 năm thì mất. Sau hơn một nghìn năm, mãi tới đời Ngô Quyền (939 - 944) mới giành lại được độc lập, quốc đô lúc này vẫn ở Cổ Loa. Phải chờ tới năm 968 Đinh Bộ Lĩnh mới thật sự dựng lên Đế nghiệp tiếp nối sự nghiệp vua Hùng. Truyền thuyết phong thủy kể rằng vua Đinh được ngôi huyệt kết đế vương "mã đầu đới kiếm hữu sát" bộc phát nhưng không bền. Nguyên động Hoa Lư có một cái đầm ban đêm ánh hồng quang bốc lên chiếu thẳng vào sao Thiên Mã, thầy địa lý Tầu đi dò long mạch từ Tuyên Quang, Hưng Hóa xuống tới phủ Đại Hoàng thấy sông sâu nước xoáy mạnh biết dưới đầm kết huyệt quí liền nhờ cậu Đinh Bộ Lĩnh lặn xuống xem xét, khi lặn xuống đáy cậu sờ thấy hình một con ngựa đá đứng dưới đầm liền lên nói lại với thầy địa lý, thầy cả mừng đưa cho Bộ Lĩnh một nắm cỏ bảo lặn xuống lần nữa đưa bó cỏ non nhử vào mồm ngựa xem sao. Bộ Lĩnh lặn xuống đưa bó cỏ trước mồm ngựa liền thấy nó há miệng ngoạm lấy. Khi lội lên nói rõ chuyện thầy Tầu biết chắc là huyệt đại quí thủy mã đang linh liền trọng thưởng cho Bộ Lĩnh rồi hẹn ngày khác trở lại. Bộ Lĩnh rất tinh khôn liền trở về nhà mang bó xương cha vẫn để trên gác bếp rồi bí mật lặn xuống táng vào mồm ngựa. Từ đấy mỗi ngày Bộ Lĩnh một khôn lớn mạnh mẽ phi phàm, đánh đâu thắng đấy. Ít năm sau thầy Tầu trở sang thấy Đinh Bộ Lĩnh đã trở thành thủ lĩnh anh kiệt biết ngay là họ Đinh đã đoạt ngôi huyệt quí, thầy rất căm tức liền dụng mưu trả thù. Thầy nói với Bộ Lĩnh là ngựa phải có gươm mới toàn mỹ nên bảo Bộ Lĩnh lặn xuống đặt một thanh gươm bên cổ ngựa. Bộ Lĩnh không nghi ngờ liền lặn xuống đầm gác gươm lên cổ ngựa. Quả nhiên từ đấy Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp hết 12 sứ quân xưng là Vạn Thắng Vương rồi lên ngôi Hoàng đế. Được đúng 12 năm thì cả hai cha con đều bị ám sát chết vì kiếm để đầu ngựa tất sinh sát khí ! Câu chuyện sau khi tước bỏ huyền thoại, có thể còn lại điểm đất Hoa Lư có hình con ngựa gọi là "thủy mã huyệt", sau này mộ vua Đinh đặt trên núi Mã Yên có nghĩa là trên yên ngựa . Cũng có thể các đời vua Đinh, Tiền Lê (Lê Hoàn), Hậu Lê (Lê Lợi), Chúa Trịnh, Nguyễn, đều phát xuất ở miền đất gần nhau: Hoa Lư, Lam Sơn, không cách xa sông Mã (cũng lại là ngựa), đều gốc người Mường, nên hưởng long mạch sông Mã chăng ? Tới đời nhà Lý thì khoa phong thủy đã rất thịnh hành qua các nhà sư Mật tông. Đất Cổ Pháp do sư Định Không đặt tên là đất phát Đế vương lâu bền, nhà Lý với tám vị vua (Lý Bát Đế) là triều đại liên tục dài nhất trong Việt sử sau đời Hùng, được 215 năm (1010 - 1225). Có hai thuyết ngoại sử về đại địa họ Lý: một là ông thân sinh Lý Công Uẩn ngã xuống giếng trong khu rừng Báng bị chết, sau mối đùn lên thành ngôi huyệt đại phát; hai là bà mẹ Lý Công Uẩn đi quanh quẩn trong rừng Cổ Pháp hốt nhiên chết, kiến mối xông lên kết thành mả cao 7 thước được chỗ đất tốt chung linh. Khi lên ngôi vua về yết lăng, Lý Thái Tổ trông thấy cây cối xanh tốt, loài chim bay liệng cảm động rơi nước mắt, Vua sai đo quanh mỗi bên vài mươi thước làm cấm địa, sau gọi là Thọ lăng (Việt Sử Tiêu Án). Có lẽ chuyện bà mẹ chửa hoang nhẩy xuống giếng tự tử sau khi sinh Công Uẩn thì hợp tình lý hơn, dù sao ngôi huyệt ở giếng trong rừng Báng là một huyệt kết, có tám gò ở chung quanh nở ra như hình hoa sen tám cánh nên nhà Lý truyền được tám đời vua. Công Uẩn được sư Lý Khánh Vân nuôi (xưa nay con hoang mang gửi gấm nhà chùa là chuyện thường, ngoại truyện lại nghi là một sa môn tư tình làm bà Phạm thị mang thai, có thuyết nói sa môn nặng nghiệp ấy chính là sư Vạn tức Vạn Hạnh !), sau lại được theo học với sư Vạn Hạnh nên trở thành một vị vua hiền đức. Có thể tin rằng sư Vạn Hạnh có ân tình sâu nặng với nhà Lý nên đã để đất tái phát cho họ Lý sau một ngàn năm (xem phần Sấm Vạn Hạnh), "Lý đi rồi Lý lại về" là câu đồng dao chỉ có thể truyền ra sau khi Vạn Hạnh để đất Bảo sơn thiên tử xuất. Chữ Lý gồm ba chữ thập, bát, tử, hợp thành, Lý Công Uẩn ở ngôi 18 năm (thập bát) 1010 - 1028, sinh ra ở chùa Ứng Tâm nên chùa có tên nôm na là Chùa Dặn (dặn đẻ !), tại làng Đình Bảng bây giờ. Sách Đại Việt Sử Lược là cuốn sử cổ nhất của Việt Nam, được viết vào đời Lý, chép nhiều chuyện rồng xuất hiện trong cung bên cạnh việc rồng hiện với mây ngũ sắc khi thiên đô ra Thăng Long. Đời Lý Nhân Tôn (1066, mẹ là Nguyên phi Ỷ Lan) vua là con cầu tự, sử chép ngài có tướng "Nhật giác long nhan" tức xương trán nổi lên như như hình chữ nhật, hai tay buông dài quá đầu gối, là tướng thiên tử. Trong đời vua Lý Nhân Tôn, 56 năm ở ngôi, vua làm lễ tắm tượng Phật (giống như pháp môn Tây Tạng), tế núi Tản Viên (tổ sơn), lại có đại danh tướng Lý Thường Kiệt phạt Tống, bình Chiêm (số Tử Vi Lý Thường Kiệt có sao Thái Dương bị Triệt nên là số hoạn quan), Chân Lạp triều cống... là một thời đại vinh quang của Đại Việt. Vua Nhân Tôn không có con nên lập cháu là Dương Hoán làm Thái Tử, ngày Dương Hoán chào đời là ngày sư Đạo Hạnh hóa thân, nên có chuyện cho rằng Thái tử là Từ Đạo Hạnh hóa sinh. Tiếp theo nhà Lý là nhà Trần, một dòng họ xuất thân từ nghề đánh cá, trên sông nước từ vùng duyên hải Hạ Long đến Nam Định, trước ở vùng An Sinh, Đông Triều (sau này các vua Trần trở về đây tu hành tại núi Yên Tử), sau rời xuống Tức Mạc, gần cửa Tuần Vường, ngã ba sông Cái, huyện Mỹ Lộc. Theo truyền thuyết, một thầy địa lý Tầu đi tầm long từ tổ sơn Tam Đảo, qua đất Thăng Long rồi xuống phương Nam, thấy gò đống tụ tập biết là đúng hướng nhưng rồi không thấy vết tích long mạch đâu nữa ! Thầy địa lý đi tiếp đến một con sông mạch nước chẩy xiết , qua bên kia sông thấy một ngọn núi đột ngột hiện lên, thầy vui mừng nói "ai ngờ đất đế vương lại lạc xuống quãng bình điền !". Sau đó thầy để cuộc đất quí ấy cho Nguyễn Cố nhưng Nguyễn Cố là người bất nhân lật lọng đem trói thầy địa lý ném xuống sông để khỏi trả 100 quan tiền. Đúng lúc ấy thuyền đánh cá họ Trần tình cờ đi qua vớt lên được. Để cảm ơn cứu mạng thầy địa lý mang mộ tổ họ Trần táng thay vào. Đây là đất phát đế vương, mặt trước minh đường ngã ba sông mênh mông mặt nước, đằng sau gối vào voi phục, hai bên cờ kiếm la liệt, huyệt nằm vào đúng phương vị "Thổ phúc tàng kim", ngồi phương Càn trông chữ Tốn, kiểu đất này thầy địa lý đoán rằng "Phấn đại yên hoa đối diện sinh, tất dĩ nhan sắc đắc thiên hạ" nghĩa là "son phấn yên hoa bày trước mặt, hẳn vì sắc đẹp lấy giang sơn" (Công Dư Tiệp Ký tr. 75). Mãi ba đời sau, đất mới ứng phát ra Trần Cảnh có tướng mũi rồng mắt phượng, Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng rồi lên ngôi mở đầu nghiệp vua 188 năm (1225 - 1407). Người sau nói long mạch họ Trần bị đứt vì mang đào một con sông từ cửa sông Cái xuống tới xã Đại Đường; cuối cùng vua Trần Nghệ Tôn nằm mơ thấy Xích Chủy (chữ Nho tên Hồ Quí Ly là xích chủy có nghĩa là mỏ đỏ) sẽ đoạt ngôi vua vì Nghệ Tôn sinh năm Dậu là Bạch kê (gà trắng) tất bị mỏ đỏ hồ tinh cắn chết ! Họ Trần phát ra những nhân vật xuất chúng như Hưng Đạo, Quang Khải, những ông vua hiền triết (philosopher kings) như Thái Tôn, Nhân Tôn...biết đem cái bình dị thực tế của lớp dân đánh cá lồng vào cái cao siêu của đạo pháp đại hùng đại lực, nên trước đại thắng Mông Cổ, sau chiếm gần hết Chiêm Thành bằng đạo binh nhân nghĩa gọi là đô "Tỏa Kim Cương" vừa hàm ý sắc bén của kim cương vừa hàm ý lan tỏa Phật pháp kim cương thừa. Chính vua Nhân Tôn đã đi chân đất mà giảng giải Thập Thiện cho dân chúng, lại lập nên thiền môn Trúc Lâm Yên Tử khai phát và quy kết tinh thần dân tộc. Vua còn nạp phi con gái pháp sư người Tây Tạng, một vị sư "đã 300 tuổi, có thể đi trên mặt nước, thu lục phủ ngũ tạng lên ngực...", đời vua Minh Tông cũng có sư Bồ Đề Thất Lý từ Ấn qua, vị này cũng có thể ngồi nổi trên mặt nước... Xem như thế tới đời Trần, thiền phái Mật Tông, Yoga vẫn còn ảnh hưởng và Phật giáo chưa bị Tống Nho làm suy yếu lệch lạc như thời Hậu Lê trở về sau. Một vấn đề luân lý thường được nêu ra về nhà Trần là vấn đề loạn luân, trong họ lấy lẫn nhau để giữ cơ nghiệp không cho lọt vào họ khác, thậm chí Trần Thủ Độ ép cả vua Thái Tông lấy vợ của anh đang mang thai để chắc chắn có người nối nghiệp. Có thể họ Trần rất tin số Tử Vi và chắc có người tinh thông khoa này nên xắp xếp việc vợ chồng theo lý số, bất chấp liên hệ gia tộc, miễn là hợp tuổi để sinh quý tử. Khoa Tử Vi nhà Trần còn truyền đến bây giờ, môn phái này đoán số rất chính xác, dựa trên vòng sao Thái Tuế, Lộc Tồn... để tính đại tiểu sự. Đức Trần Hưng Đạo, người anh hùng được thờ cúng ngay từ lúc còn sống (đền Sinh Từ) cho tới sau khi chết, như một bậc Thánh, sinh ngày 8 tháng 4 năm Mậu Tuất, giờ Ngọ, và qui thần vào ngày 20 tháng 8, năm Canh Tý (1300). Số Tử Vi của ngài Hỏa mệnh, Thân Mệnh đồng cung ở Mùi, vô chính diệu, đắc Nhật Nguyệt chiếu Mệnh, hội Thiếu Âm Thiếu Dương, thêm Tả Hữu Khoa Quyền Khôi Việt, Thanh Long, Long Đức, là số siêu nhân, đứng giữa trời đất thanh thiên bạch nhật, uy quyền chỉ huy vạn dặm, tuyệt đỉnh thông minh. Tới đời Lê, từ thế kỷ XV (1428 - 1527) tới vua Lê chúa Trịnh chúa Nguyễn (1674 - 1775) thế kỷ XVII - XVIII, đất nước chuyển sang một đại chu kỳ 500 năm, lúc thịnh lúc suy, loạn lạc nhiều hơn thái bình, vương đạo vẫn còn nhưng thánh đạo thì hết, anh hùng vẫn phát sinh nhưng trường thế thì mất, cuộc đất Việt Trì Tam Đảo châu thổ sông Hồng bước vào chu kỳ suy và cuộc đất Nam phương bắt đầu thịnh. Lê Lợi, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn... đều là người thiểu số Mường, một bộ tộc rất gần gũi với người Việt, không khác gì người Việt cổ thời Hùng Vương, cũng có huyền thoại một bọc trăm trứng, cũng có trống đồng, cũng có chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh và cũng thờ Thánh Tản Viên. Vùng tập trung người Mường kéo dài từ miền núi Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa tới Nghệ An, Quảng Bình... Phùng Hưng, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành đều gốc người Mường, cho nên người Mường là người Lạc Việt ở vùng núi non, còn người Việt là người Lạc Việt ở đồng bằng, cả hai đều chung một nguồn gốc lịch sử khởi đi từ vua Hùng. Tằng tổ Lê Lợi là Lê Hối vốn làm nghề thầy cúng, đi chơi núi Lam Sơn thấy đàn quạ bay lượn tụ họp, cho là đất tốt liền dời nhà đến đấy. Tổ Lê Lợi tên Đinh, bà tổ tên Quách (Đinh, Quách, Bạch, Hoàng...là những tên thông thường trong tiếng Mường), thân mẫu họ Trịnh. Lê Lợi là con út, khi chưa sinh thường có con cọp đen gần làng, khi sinh ra rồi thì con cọp đen biến mất, mọi người cho Lê Lơi là hóa thân cũa con cọp đen ! Trong sách Lam Sơn Thực Lục, Nguyễn Trãi ghi "vua Lê vai tả có bảy nốt ruồi, lông lá đầy người, tiếng như chuông lớn, ngồi như hổ..." có lẽ tướng lông lá như vậy nên mới có chuyện hổ thành người chăng ? Nhưng đất phát lên đại nghiệp lại nằm ở xứ Phật Hoàng, động Chiêu Nghi, hình quả ấn, tả có núi Chí Linh,, trong có gò Tiên Ban, trước có nước Long Sơn, Long Hồ nước xoáy...nhà sư họ Trịnh từ Ai Lao để cho họ Lê miếng đất quí đó, lại đoán rằng đất này con cháu phải phân cư, nếu cải táng thì sẽ trung hưng năm trăm năm nữa. Trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh đầu tiên với 635 thủ hạ, Lê Lợi từng bị giặc đuổi phải chạy trốn vào bụi rậm, cầu xin "một vị thần áo trắng" (một người đàn bà mặc áo trắng, tay đeo xuyến vàng, thoa vàng, mới chết, hiển linh thành con chồn trắng làm lạc đường chó săn của quân Minh), lại vớt lưới được lá gươm "thuận thiên" và nhặt được cán vừa liền nhau, có lẽ là thanh gươm trời cho rồi sau này bị Thần Rùa đớp lại tại Hồ Hoàn Kiếm, Thăng Long. Vua Lê Lợi sinh ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, giờ Tí, Kim Mệnh. Số Tử Vi Mệnh Thân đồng cung ở Dậu, vô chính diệu, có Bạch Hổ tọa thủ (phải chăng vì vậy có chuyện nói ngài là con hổ hóa thân ?), Thái Tuế ở Quan chiếu lên, Tứ Linh, Thanh Long Hóa Kỵ Âm Dương ở Quan Lộc, thêm Song Lộc Quyền hợp chiếu, đắc cách sát tinh độc thủ, anh hùng, không thọ (49 tuổi) và không hiền từ. Như vậy nhà Lê cũng bắt đầu với những huyền sử truyền kỳ dân tộc : một nhà sư để đất dấy phát, một vị nữ thần áo trắng (Quan Âm ?, Thánh mẫu ?...), một thần Kim Qui. Chỉ tiếc rằng công nghiệp của ông vua khai sáng triều đại này bị lu mờ vì chuyện giết hại hầu hết các công thần gốc tích châu thổ sông Hồng như Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, ngay cả quân sư Nguyễn Trãi cũng bị tống giam, sau lại thả ra nhưng không được tin dùng. Đấy là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc có sự căng thẳng mang màu sắc địa phương, giữa nhóm triều đình hầu hết là gia tộc họ Lê, gốc Mường, ít học, võ biền, và nhóm sĩ phu miền Hồng Hà. Mãi tới đời Lê Thánh Tôn, một ông vua hiền tài do chính Nguyễn Trãi lập kế nuôi dưỡng, bảo vệ cả mẹ (Ngô Thị Ngọc Dao) và con (Tư Thành) trong chùa chiền và thuyền bè tại vùng vịnh Hạ Long để tránh khỏi sự truy lùng của nhóm Thị Anh và Thái Tử Băng Cơ, nên nhà Lê mới lại thuần hóa vào dòng sinh mệnh châu thổ sông Hồng và sau 38 năm tại ngôi vua Lê Thánh Tôn đã để lại một ấn tượng tốt trong dân chúng và sĩ phu khiến cuối đời Lê, dù suy yếu mà vẫn trung hưng lên được. Tuy vậy sau này xẩy ra vụ Kiêu binh (thế kỷ XVII), bọn lính Thanh Nghệ cậy công làm càn, là chuyện đã manh nha từ khoảng cách giữa hai khối dân từ hai địa vực khác nhau ấy. Vụ tru di tam tộc Nguyễn Trãi không những vì lòng ghen giữa mấy người đàn bà mà còn mang nặng thù hận của nhóm thân tộc địa phương họ Lê với bậc khai quốc trưởng thượng, nó không xẩy ra ở một hai đời mà còn xẩy ra ở nhiều đời vua Lê khác. Xét chung, triều Lê không có vương đạo như triều Lý, Trần và về sau đức độ còn thua kém cả nhà Mạc. Cuối đời Lê, các ông vua Quỷ như Lê Uy Mục, vua Lợn như Lê Tương Dực, làm cho sứ thần nhà Minh (vốn biết tướng số) phải phê bình : An Nam tứ bách vận vưu trường Thiên ý như hà giáng quỷ vương ! nghĩa là : Bốn trăm năm vận nước Nam lâu dài Sao ý trời lại giáng xuống quỷ vương ? và biết trước loạn vong sẽ tới. Sứ thần nhà Minh nói vào khoảng năm 1505 - 1509, đã biết trước vận quân vương Việt Nam dài độ 400 năm nữa tức là vào khoảng 1900 là lúc mất nước vào tay Thực dân Pháp. Bốn trăm năm này không phải là hồng vận quốc gia, vì trời giáng quỷ vương với trư vương ! lời nói có vẻ tiếc cho nước Nam. Nhưng 99 năm sau Lê Lợi, một kết tập cuối cùng của đất sông Lô núi Tản chung quanh nhà Mạc và Trạng Trình lại mở ra một sách lược mới cho dân tộc nhằm phục hoạt lại tinh thần Lý, Trần. Mạc Đăng Dung đoạt ngôi của vua quỷ vua lợn không phải là chuyện bất nhân, hay quá lắm, cũng chỉ như Trần Thủ Độ lấy ngôi vua nhà Lý cho nhà Trần. Nhưng vì họ Mạc là quan võ, xuất thân từ nghề đánh cá (giống họ Trần) nên bị khối quan văn Tống Nho khinh thường và chống đối : nhà Lê, dù vua Lê Thánh Tôn rất anh minh, đã đi lạc sang Nho giáo độc tôn, quên cái gốc "văn ôn võ luyện" từ đời Hùng đến Đinh, Lê, Lý, Trần, để chìm đắm vào cái học khoa bảng từ chương "tiên học lễ hậu học văn" làm sa đọa cả hàng ngũ trí thức. Nhưng gốc tích Mạc Đăng Dung là gốc văn học chói lọi của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, mà chính Mạc Đĩnh Chi lại là dòng dõi Trạng Nguyên Mạc Hiển Tích nguyên Lại Bộ Thượng Thư triều Lý. Như vậy về huyết thống Mạc Đăng Dung không có gì thua kém nhà Lê. Mạc Đĩnh Chi (tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung) có bà mẹ đi qua khu rừng cây um tùm vùng Chí Linh, Hải Dương, bị con khỉ lớn hiếp nên đẻ ra ông mặt mũi xấu xí như khỉ, thân phụ tức quá vào rừng giết được con khỉ đực, sau thấy xác khỉ bị mối đùn lên thành một cái mồ rất lớn biết là đúng huyệt phát nên khi chết dặn con cháu táng mình vào chính mộ con khỉ đó. Về sau Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi cũng được táng ngay ở chân mộ khỉ đực, bên cạnh mộ của hai ông bố ! Khi đi sứ sang Tầu, Mạc Đĩnh Chi tuyệt đích thông minh linh lợi nên vua Tầu nhà Nguyên phải khen tặng cho ông chức lưỡng quốc Trạng nguyên, sứ thần Hàn quốc phải phục và mời ông sang chơi nước Hàn, lại tìm một cô gái nước Hàn gả cho ông làm thiếp. Nhìn tướng mạo quan Trạng quá xấu, người Tầu quyết tìm ra ẩn tướng, và họ đã theo dõi ông vào tận cầu tiêu để khám phá ra ẩn tướng là cục phân Mạc Trạng Nguyên hình vuông như quân cờ ! Họ lại gửi thầy địa lý sang xem mộ tổ tiên họ Mạc và khi tới mộ "khỉ đực" thì thầy điạ lý nói đấy chính là ngôi đất kết phát ! chỉ tiếc là thủy không tụ mấy, thiếu hổ thủy, nên phát quí chứ không phát phú. Trong thời gian đi sứ Tầu, văn quan Trung Quốc ra câu đối An, nữ khứ : thỉ nhập vi gia Chữ An bỏ chữ nữ thay chữ thỉ là heo vào thì thành chữ gia. Ông đối lại : Tù, nhân xuất : vương lai thành quốc Chữ Tù bỏ chữ nhân, cho chữ Vương vào thì thành chữ quốc. Người Tầu dựa vào Mai Hoa Bốc chiết tự mà đoán rằng con cháu sau này tất có người làm vua, nhưng vì chữ vương viết chữ đơn (王) nên giữ nước không được bền. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi, phong ông tổ Mạc Đĩnh Chi làm Linh Khánh Đại Vương, xây điện Sùng đức lên nền nhà cũ, lại đắp đàn cao để vua quan tế lễ. Khi còn là một anh chàng đánh cá, dung mạo Mạc Đăng Dung rất phi phàm nên bà mẹ Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn giỏi tướng số phải đoán là người thanh niên đó sau này công danh tột bực. Chữ Mạc theo chữ Nho có chứa chữ Đông nên bài Sấm của sư Vạn Hạnh có câu: Chấn cung kiến nhật tức: Phương Đông mặt trời mọc chỉ nhà Mạc lên ngôi thiên tử (xem phần Vạn Hạnh). Nếu đúng ý như vậy thì nhà Mạc là một triều đại có vận số sau nhà Lê, mà ngay nhà Nguyễn về sau cũng không được sấm Vạn Hạnh nhắc tới. Nhà Mạc làm vua tại Thăng Long được 65 năm, chạy lên Cao Bằng được 75 năm nữa, tổng cộng 140 năm, không phải là ngắn ngủi. Nhà Lê bị dứt tới 65 năm, quanh quẩn ở một vùng Thanh Hóa từ 1543 - 1592, vậy mà các sử sách sau này lại coi là chính thống liên tục, thì quả là bất công cho nhà Mạc. Nếu lại nói Mạc Đăng Dung tự trói mình để cầu hòa với nhà Minh là nhục quốc thể (như Trần Trọng Kim kết án trong VN Sử Lược), thì lúc đó ông không phải là vua, chỉ là Thái Thượng Hoàng dùng khổ nhục kế dâng mấy động núi tượng trưng để tránh họa xâm lăng do chính nhà Lê sang Tầu cầu cứu ! Hành vi đó không nhục nhã tai hại bằng việc vua quan Lê Chiêu Thống sang van lậy nhà Thanh viện binh sau này ! Hơn nữa nhờ tránh voi mà nhà Mạc mang lại yên ổn cho đất nước, chỉ vì nhóm thủ cựu phò Lê và phe địa phương xứ Thanh cát cứ gây loạn tranh dành liên miên nên nhà Mạc mất hẳn cơ hội phục hồi một Đại Việt theo truyền thống Lý, Trần. Nhà Mạc biết trọng người hiền như Nguyễn Bỉnh Khiêm, biết giữ gốc dân bản thực dụng bình dân qua việc xây cất các đình làng trên toàn quốc, đào tạo nhân tài với tỷ lệ nhiều nhất trong lịch sử Nho học Việt nam: 22 khóa thi Đình với 485 vị Tiến sĩ trong 65 năm, khôi phục chùa chiền trong tinh thần Tam giáo đồng tôn (mà nhà Lê đã đánh mất), đã có thời thịnh trị "của rơi không ai nhặt" như đời anh quân Mạc Đăng Doanh (1530 - 1540) v..v.. Những đời sau, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, rồi Triều Nguyễn, không thấy nhiều tư liệu về mồ mả phong thủy. Họ Trịnh được ngôi đất "phi vương phi bá, quyền khuynh thiên hạ" nhưng chỉ được 8 đời rồi sẽ bị tai họa. Nguyên ngôi đất này là cái hố, mẹ Trịnh Kiểm bị dân làng trừng phạt ném xuống vì Trịnh Kiểm mỗi ngày đều đi ăn trộm gà để nuôi mẹ. Bà mẹ bị chết tình cờ lại nằm đúng huyệt phát ! Lọt vào giữa Trịnh, Nguyễn, có ngôi sao Nguyễn Huệ rực lên ít năm, có người như Lê Quí Đôn cho là được đất phát ở Tây Sơn, Bình Định, nhưng 4 đời trước họ Nguyễn Tây Sơn gốc họ Hồ ở Nghệ An, vậy có thể vẫn thừa hưởng long mạch đất Hồng Lam, long mạch vùng này vốn không lâu bền. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sinh ngày 5 – 5 - Nhâm Thân, giờ Tuất, số Tử Vi Kim mệnh. Thất sát và Thái Tuế đường đường đóng tại Mệnh, thêm Tử Phủ, Tham Phá, Tứ Linh, Quyền, Mã.. hợp chiếu, là số thành công vũ bão, Phúc bị Tuần, Đà La, Hóa kỵ, Mệnh Song Hao, nên không thọ. Họ Trịnh phát xuất từ Bồng Thượng, miền trung du Thanh Hóa, Trịnh Kiểm từng đánh thuốc độc giết bố vợ là Nguyễn Kim, lại tàn nhẫn giết luôn anh vợ là Nguyễn Uông, sau này con cháu dường như tản mát về làng Cự Đà gần Hà Nội, đình làng này có hai pho tượng quay lưng vào nhau nên tương truyền người trong làng không thân thiết tương trợ. Họ Nguyễn được đất ở Gia Miêu Thanh Hóa, tổ họ này là Nguyễn Kim, người đứng ra tìm con cháu nhà Lê để phục hưng triều đại, vợ Nguyễn Kim người Hải Dương cùng quê với Trạng Trình, nên Trạng Trình đã nể tình chỉ đường sống cho con Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng vào đất "Hoành sơn" dung thân để tránh lưỡi gươm của Trịnh Kiểm. Biết rằng phong thủy vùng này có thể hưng vượng một cõi nên họ Nguyễn đã nghe Trạng Trình kéo nhau vào Thuận Quảng lập nghiệp. Một chi họ Mạc chạy trốn Lê Trịnh cũng theo vào, con gái Khiêm Vương Mạc Kính Điển trở thành bà Chúa Sãi (1613 - 35). Mãi tới ông vua cuối cùng là Bảo Đại long mạch họ Nguyễn mới tận. Năm 1945 Bảo Đại kể lại "cây xà ngang nóc điện tự nhiên gẫy đổ rơi xuống" là điềm rất độc, báo hiệu một triều đại chấm dứt và chấm dứt luôn nghìn năm quân chủ Việt Nam. Từ sau 1945, sử Việt đi vào giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn nhiễu nhương chiến tranh, mạt pháp. Đứng về phương diện phong thủy lý số, vẫn tiếp tục khí mạch độc loạn đi về phương Nam từ đời Lê - ông CT Hồ Chí Minh (1954 - 69) gốc Nghệ An cùng các phò tá đều đa số phát tích từ đất Trường Sơn, miền Nam các ông TT Ngô Đình Diệm (9 năm), TT Nguyễn Văn Thiệu (9 năm) người Quảng Bình, người Phan Thiết, đều khởi từ khí mạch vùng núi, đất hẹp sông ngắn, nên không được lâu bền. Ông Nguyễn Văn Thiệu ở đuôi chót Trường Sơn, là huyệt phát cuối cùng của giải đất này, chấm dứt một chu kỳ long mạch Nam tiến trên đất Chiêm Thành cũ. Từ sau, long mạch đất Việt lại khởi sang một chu kỳ khác, phương hướng khác, báo hiệu đại hồng vận "thiên tử xuất tại Bảo Sơn Bảo Giang", phục hoạt vương đạo Hùng Vương Viêm Việt.
kimmai
TẬP - Phụ bản của Cư Sĩ Minh Điền LỜI NÓI ĐẦU -- -- -- ---- Vì sao có quyển sấm nầy ra đời ? - Không dám vọng ngữ , quyển sấm nầy cần phải ra đời vì nó quý báu bằng tất cả kho tàng của một nước Đại Việt và hơn nữa, đã đến giai đoạn cần thiết của thời cuộc hiện tại mà lời sấm đã ghi đúng đắn từng li từng tí mỗi một cuộc biến cố xảy ra trong nước. Bắt đầu từ Cổ Am bị tàn phá cho đến ngày lịch sử cách mạng tháng 8, kế đến giai đoạn Hoàng Đế Bảo Đại về nước, mỗi mỗi đều nhốt tất cả trong 487 câu thơ mà Đức Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm, với một bầu tâm sự đầy nhiệt huyết nhả ngọc phun châu cho vạn cổ anh hùng suy nghiệm. Hởi các chí sĩ anh hùng trong thiên hạ ! Chớ nên quá ư căn cứ vào khoa học mà chê những truyện sấm giảng là hoang đường, vì có những sấm giảng và sấm giảng.Hoang đường là lời nói vu vơ, ảo mộng không biết bao giờ xuất hiện như lời đã nói. Còn quyển sấm nầy viết từ 400 năm nay mà mỗi mỗi đều ứng nghiệm ngoài đời thực tế cho đến những cái tên riêng của những người chủ trương trong mấy phong trào quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều ứng nghiệm ghi rõ . Nó là môn khoa học huyền bí vì Trạng chuyên môn lý số nhờ ở bộ " Thái Ất Thần Kinh " mà ghi chép ra chứ nó đâu phải ngất ngưởng như bóng với đồng. Nếu không phải khoa học, sao cụ lại được tặng câu " Annam lý học hữu học Trình truyền " của Tàu là một nước bao giờ cũng tự hào rằng mình cao hơn hết về khoa lý số. TỰU TRUNG : Cũng vì lòng từ bi, bác ái mà đức Trạng có quyển sấm nầy ra cốt để cho các vị trượng phu anh hùng xem lấy mà tránh cái nạn cốt nhục tương tàn. Cũng vì lòng yêu nước thiết tha mà Đức Trạng có quyển sấm nầy ra là cốt để cho trong tôn giáo, ngoài xã hội xem lấy biết nẻo tôn phò " lòng trung nghì ai nhớ cho tinh " và cũng vì lòng hiếu kỳ mà soạn giả khởi đọc quyển sấm nầy hồi 1930 sau cuộc biến động Cổ Am do Quốc Học Tùng San xuất bản. Soạn giả cũng không nệ hà tài hèn hiến cho bạn đọc những đoạn dịch chánh bản và phụ trương mong rằng thích đúng trong muôn một. Viết ở Sài-Thành mùa đông năm Mậu Tí 1948. Cư Sĩ MINH ĐIỀN PHẦN THỨ NHẤT Dục thức thánh nhân xứ Đa xuất ứng Bảo giang Dục thức thánh nhân hương Thủy lam bảo trung tàng Dục thức thánh nhân tính Mộc hạ liên đinh khẩu Dục thức thánh nhân diện Tu tẩm trương cú kiến Giang nam nhị thủy huyện Tại sơn vô hổ lang Thất thập nhị hiền tướng Phụ tá thánh quân vương Phá điền thiên tử xuất Bất chiến tự nhiên thành. * * * ......................... ......................... Tư tâm dục thức thánh nhân diện Lưởng biên bàn ngạt tùy nhất khối Thủ túc chánh vương tam lương tự. PHẦN THỨ HAI Cuộc đời ai dễ biết đâu Yêu tinh gian trá bóp hầu thần tiên Quan làng ỷ thế ỷ quyền Dân khôn giả dại mới yên phận mình Mặc ai chia rẽ thị khinh Việc làng việc nước làm thinh chớ bàn Ta tin ta mới đặng an Luận bàn bè bạn chỉ đàng cho nhau Việc người thì mặc người âu Nghiêng tai giả điếc lắc đầu làm ngơ Muốn yên mồn lặng như tờ Luận bàn việc nước thì khô xác hình Bởi đời quốc thể bù nhìn Quan làng tàn bạo sanh linh tơi bời Lương dân than khổ đòi nơi Quốc hồn mờ ám hởi ôi thế quyền Nước nhà nghiêng ngửa ngửa nghiêng Tham quan hại nước lợi riêng cho mình Biết chi là ám với minh Sớm ưa trưa ghét dân tình đời ni Kim tiền quyền thế tương tri Không quyền không thế người khi ngu đần Chớ hà hiếp nhớ siêng cần Đến nơi Tiên Phật Thánh Thần mới an Nghèo nàn bổng chốc giàu sang Đứa ngu đội bạc ra đường dại khôn Bởi đời toàn lũ vô hồn Khinh khi nhân nghĩa trọng tôn bạc tiền Dốt ngu đội lốt Thánh Hiền Mở miệng thì rặc đồ điên một dòng Chừng nào cây sắt trổ bông Đường đen như mực Lạc Hồng tai phi Trung thần ái quốc dễ khi Phản thần mãi quốc nên ghi để đời Thức thời quốc sử bỏ rơi Ngay không nhầm lúc dĩ hơi hại mình Vô quân vô tướng vô binh Trung không cùng chúa cúng kinh ích gì Chừng nào lú mọc trên chì Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu Trí thời giả điếc giả ngu Khôn thời giả dại mà tu lấy mình Cầm quyền toàn lủ yêu tinh Quan nhiều Mảng Tháo cùng sinh hại đời Mua quan bán tước lấy lời Hại dân hại nước coi trời như không Bì trung cốt nịnh rặc ròng Kết phe kết đảng giết giòng phải nguy Nồi da xáo thịt ngộ thay Miễn mình béo bở mặc ai ốm gầy Cáo kia mượn thế hại cầy Mẹ cha ưa nịnh ghét bầy con ngu Động tâm Thượng Đế dạy ru Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần Gió sầu mưa thảm cõi trần Thiên luân địa chấn quân thần nó xem Canh tân sực nức mùi hèm Mhâm quý bằng lặng ngoại binh đem vào Giáp thời thấy rõ binh đao Ất niên chiến họa xâm vào tràn lan Thiên tai chiến sự đa đoan Quốc gia nghiêng ngửa tham quan hại đời Phản thần bán nước khi trời Gọi rằng trung trực hởi ôi thế quyền * * * Nhứt hữu liên sơn nhứt hữu bình Tam giang khí địa nhụ giang kinh Tu châu tai lạc thế châu khổ Ngu lại hườn chung khổ hại mình *** Xác dân xung tận cung đình Thiên oai chấn nổ luật hình ban ra Mười phần mất bảy còn ba Mất hai còn một mới ra thái bình Trục kia chọi với đồng minh Hai sông khô cạn nhựt tinh tỏ ngời Ra oai đánh dẹp mọi nơi Năm châu bốn bể thây phơi chập chùng Mùa xuân gió bấc lạnh lùng Cua kình trở gọng về cùng lũ dê Cuộc đời như thể trò hề Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền Sình ương khó nướng xào chiên Quốc gia nghiêng ngửa đảo điên bốn bề Ra đi thì khó nỗi về Xe kia hết bánh thả rề sông trôi Chừng nào Chợ Lớn hết vôi Bề Đông cá đặt cuộc đời lao đao Lò rèn thiếu thép rèn dao Hết đồng đúc đỉnh hết thau bán nồi Chợ đen vốn một lời mười Gạo châu củi quế lời người than van Vải bô giá sánh bằng vàng Kẻ đói người rách lan tràn chợ quê ... Tiết trời đánh đổ bông huê Nhân dân phải chịu thảm thê họa sầu Theo Âu nên phải lo âu Mấy ai hiểu nghĩa Bá Di-Thúc Tề Khỉ đàn vừa gặp lũ dê Bắc trung phải chịu thảm thê họa đầu Đại bàng xung phá đài lầu Ngạc ngư phóng toát thuyền cầu tan hoang Rồi Nam cũng chịu lầm than Phương đông ba tỉnh phải mang họa sầu Trớ trêu cảnh sắp nhiệm mầu Phồn hoa đô hội thảm sầu đớn đau Cuộc đời gẫm thiệt cơ cầu Trung thua quyền nịnh tiên hầu quỉ ma Khỉ đàn gặp cặp mảng xà Trăng tròn thiếu một thì ta xuống hầm Yêu đương cũng phải lạc lầm Sáu nơi khói lữa sấm gầm Sài môn Nghèo nàn không có quách chôn Gian tham quyền thế biết khôn lánh rồi Nhưng mà họa có đâu thôi Bồng con bế cái nổi trôi đầy đàng Đến hồi quốc vận lâm nàn Chi tiêu ăn mặc cường quan độc quyền Càng ngày càng đảo càng điên Dân ta như thể đàn chiên đánh vồn Ô hô giống khéo giống khôn Vay thời phải trả xác hồn lìa xa Thịt rơi xương nát máu sa Thầy tăng chẳng chịu ở nhà phù tang Sưu cao thuế nặng ta mang Đàng xa mới biết xa đàng nặng cân Thân dậu lánh việc nương thân Miên thành Sài trấn đến gần bỏ thây Khỉ bầy bị một gà khi Cuộc đời như vậy tham chi mà bòn Gà mừng gặp lúa túc con Miễn con no dạ mất còn kể chi Cái năm chiến họa loạn ly Mưa to gió họa hại gì tham quan Nhơn dân khốn khổ đa đoan Mọi điều khốn khổ lại càng bằng hai Tu hành hiền hậu chết hoài Sai ngoa gian trá sống dai chật đàng Cơ trời định vậy chớ than Tương vong yêu nghiệt hành tàng đấy ư ! Đầu xuân gà gáy hăm tư Thầy tăng đến hạn họa trư tuyệt kỳ Thiên cơ máy tạo huyền vi Tuần hườn máy tạo ai thì có hay Nực cười cho lủ vô tài Tôi tôi chúa chúa hôm mai Sở Tần Xuân phân cho đến thu phân Quốc gia điên đảo thần dân rối nuồi Buồn buồn tủi tủi vui vui Tiếng thì để tiếng muốn lui lắm lần Rồi đây bày tỏ trung cang Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu Văn minh cơ khí đủ điều Cọp đồng gấu sắt phi phiêu thủy hành Phong luân họa giáng lôi oanh Kết phe lập đảng tranh giành thế ni Năm châu nổi sóng một khi Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo Mưa dầu nắng lửa sấm reo Hai loài xâu xé họa gieo dân lành Đảng dân đại bại tan tành Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiến cùng Tu binh mãi mã chiêu hùng Núp lưng đảng cộng trung hưng nước nhà Rồi sau sanh sự bất hòa Lại cùng đảng cộng can qua chiến trường Non cao bể cả đôi đường Phân ranh biên giới tỏ tường mới an .... Vầng hồng rọi khắp bốn phang Tây phang cuốn gió tìm đàng đào vong Bập bồng Tần quốc bập bồng Là nơi chiến địa huyết hồng tràn lan Hải hồ rửa máu nghỉ an Tiền Âu hậu Á Thiên Hoàng định thu Thân gà dạ khỉ đấy chừ Thì là ngọn lửa mới thu dịu lần Kỳ phang thay đổi cuộc trần Chó kia gặp chủ nó cần sủa tru Quân minh dân sự ôn nhu Heo kia thong thả ngao du đầy đàng Chuột mừng gặp cảnh bình an Trâu kia thong thà nghêng ngang đồn điền Cọp rày làm chúa lâm điền QUÂN THẦN CỘNG LẠC MIÊN MIÊN CỬU TRƯỜNG. TRẦN CÔNG nãi thị phúc tâm GIANG HỒ SỬ SĨ đào tiềm XUẤT DU Tướng thần hệ xuất Y CHU Thứ ky PHỤC KIẾN ĐƯỜNG NGU thi thành Hiệu xưng THIÊN HẠ THÁI BÌNH ĐÔNG TÂY VÔ SỰ NAM THÀNH QUỐC GIA. * ; * * Phần Sấm Ký Bạch Vân Thi Tập và các phụ trương của Cư Sĩ Minh Điền xuất bản cách nay gần 60 năm, may man xin ghi lại đoạn kết nhân những ngày cuối cùng của năm 2006. Nếu hữu duyên , khoảng Nửa Năm Tiên Giới sắp tới, Chư Huynh Đệ Tỷ muội cùng chiêm nghiệm một kiệt tác khác : KIM CỔ KỲ QUAN để liễu ngộ thế nào là : NƯỚC NAM NHƯ THỂ CÁI BẦU NGÀY SAU CÁC NƯỚC ĐÂU ĐÂU CŨNG TÙNG. (KimMai trong X- Café)
__________________
BÍCH BÁO 12 b 4-1965-1972
Các bạn thử xem lớp mình có cùng thời với lớp này không ?
ĐỐ VUI …. ĐỂ HỌC
Các bạn Chu Văn An nào đoán được tên của 2 Thầy dưới đây sẽ được thưởng hậu hĩ:
1) Thầy nào mà ngày xưa khi được hỏi “Thầy đi xe gì?” thì Thầy chuyên trả lời đùa là “tôi đi xe Peugeot” cứ như la Thầy làm chủ một chiếc xế hộp nổi tiếng của Pháp. Xe Peugeot của Thầy thực sự là một chiếc xe không có bougie, không cần xăng để chạy. Nó chỉ là một chiếc xe đạp loại đàn ông cũ rích, chỉ có cặp thắng là made by Peugeot mà thôi. Thầy rất quan tâm về sự an toàn của Thầy khi đạp xe nên Thầy thuê thợ gắn cái cặp thắng tân tiến nhất của cái thời bấy giờ. Mỗi khi đến ngã tư đường, nhất là chổ Ngã Sáu là Thầy nhảy xuống xe để dắt bộ qua đường. Thế mà cũng có một lần Thầy bị xe taxi đụng khi đang đạp xe giữa đường, cái tai nạn này làm Thầy gãy một chân. Tôi còn nhớ là Thầy rất lịch sự, bất cứ khi có học trò nào đó chào thầy “Lạy Thầy ạ” là Thầy nhảy tót xuống khỏi xe đạp ngay lập tức để đáp lễ “không dám.” Có đứa tinh nghịch chận Thầy ngay giữa đường đễ chào Thầy, thế mà Thầy cũng xuống xe để đáp lễ. Thầy là một thể hiện điển hìinh của cái sự giáo dục Đông Phương của tụi mình :Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn.
Thầy này tên gì và Thầy dạy tụi mình môn gì?
2) Thầy thứ nhì này ngày xưa tụi mình hay gọi là “Bố” Thầy này đi xế hộp thục sự. Xe của Thầy là một chiếc Volkswagen. Ngày xưa khi dạy tụi mình về môn Vạn Vật, Thầy chuyên môn ví voi những sự sinh sản của thực vật cứ y như là những chuyện sex của loài người vậy. Thầy vẽ hoàn toàn theo trí nhớ hình nhụy hoa cây cỏ rất đẹp không bao giờ phải nhìin vàao sách.
Thầy này tên gì và tại sao Thầy được gọi là “Bố.”
QT
VIẾT CHO ĐOÀN MINH TÂM
Vào tháng 7 năm 2005, khi nhận tin hiền thê của Đoàn Minh Tâm qua đời sau cơn bệnh quái ác.... Tôi nói khẻ, Rồi đây thằng Tâm sẽ khổ đau, tiếc thương người bạn đời không biết đến bao giờ!!!. Sự việc xãy ra y vậy.... Sau cái ngày nhà nó mất, nó như một kẻ mất hồn và rơi vào cái chu kỳ depression cực kỳ thảm hại!!!! Mặc dù nó và tôi chưa có được một diểm phúc hội ngộ sau gần 30 năm xa cách!!. Nhưng qua một vài nét bút qua email, tôi cũng hiểu được những gì mà nó đang nghĩ trong nó!!! Vì rằng trong những năm cuối cùng ở 12B4 CVA, tôi và Tâm là gần gũi nhau nhất cùng với Thông Mát. Nhớ những ngày ở CVA, hầu như chúng tôi gặp và đến với nhau ngày một!!!. Tôi còn nhớ lúc đó Tâm Ghiền có chiếc Bê Xê sập lết, đôi lúc nó đèo cả 3, Tôi và Thông Mát đi uống cà phê, nhưng không đứa nào có tiền cả. Tâm nói, để tao chở tụi bây về quán gần nhà tao (Góc Phan thanh Giản và Bàn cờ) “Tao sẻ mượn tiền con bé Trang em tao, hy vọng có!” Thế rồi cả bọn vào quán kêu cà phê và chờ Tâm Ghiền trở ra với một ít tiền của bé Trang em nó.
Thông Mát nói: “tao kêu vài điếu thuốc lá nghe Phương??, thèm quá!!!! “
Tôi bảo “ừ!!! kêu đại đi Thông!!!”
Khoãng 15 phút sau, Tâm trở ra, lắc đầu và nói, con bé Trang di nhà bạn nó chơi rồi, tao có xin bà già ít tiền, nhưng bà già nói mới cho tiền hôm qua rồi nên không cho nữa!!!.Tâm tiêu nghiễu ngồi xuống châm điếu thuốc rồi mĩm cười nói với tôi: “Ê Phương, mày có uy tín hơn tao khi nói chuyện với bà già tao.... Sau khi uống cà phê xong mày vào năn nĩ, nói rằng cả 3 đứa không có tiền, mà đả lở gọi cà phê rồi, thì thế nào bà cụ cũng lòi ra!”Toi hỏi nó, bà già đang làm gì trong nhà và ông cụ nó có ở nhà không. Vì lẽ, ông cụ Tâm Ghiền rất khó, không thích bọn tôi hút thuốc, cà phê cà pháo!!!!Tâm nói, mày đừng lo, bà cụ đang dưới bếp còn ông cụ tao đi làm chưa về. Tôi nói có vẽ cự nự nó, mầy hại tao vừa thôi nhá Tâm!!! Đây là lần đầu và cũng là lần cuối nha mậy!!!!. Thằng Thông Mát cười ngặt nghẽo trong lúc thả một hơi thuốc dài lên trần!!!!
Bây giờ đến lượt tôi!!!
Vừa đến cửa nhà Tâm, thì Mẹ Tâm vừa bước ra ngoài, hình như bà chuẩn bị đi mua gì khá vội. Tôi nhanh miệng chào bà, “Thưa Bác ạ!, Tâm có nhà không? thưa Bác?”,
Mẹ Tâm nói: “Cậu ấy chắc ngoài quán cà phê đầu ngõ, cậu ra đấy tìm xem sao!.”
Tôi trả lời “dạ vâng, để con ra đó xem”.
Nói vừa xong bà nhanh gót đi!!!!. Thế thì, tôi nói khẻ, bây giờ chắc phải trở ra và giao cho Thông mát xoay sở vậy!!!! Đứng tại ngỏ nhà Tâm Ghiền gần 10 phút để suy tính coi có thể mượn tiền ai đây!!!. Rất may cho tôi, lúc đó em gái Tâm vừa về.
Gặp tôi, bé Trang hỏi: “Anh gặp Anh Tâm em chưa?” “Rồi, Anh gặp rồi” Tôi đáp.
Trang nói, “vào nhà chứ! anh đứng ngoài đấy làm gì”. Tôi trả lời “Tâm có trong nhà đâu mà Anh vô hả Trang!!.”
“Chứ tại sao Anh bảo là gặp Anh Tâm rồi cơ mà....”
Tôi đành nói sự thực với bé Trang, em gái Tâm Ghiền là bọn tôi không có tiền mà đả lở kêu cà phê và đang ngồi "đồng" ngoài quán đầu ngõ!!!!. Trang lắc đâu và chìa tiền cho tôi!!!!. Tôi nói với Trang là ngày mai Anh trả và cãm ơn em đả cứu bọn Anh!!!. Trước khi chạy trở lại quán cà phê, tôi còn căn dặn Trang đừng mét lại bà già!!!!!
Thật sụ mà nói, trong bọn 12b4 CVA bọn tôi, mỗi đúa một vẽ, khó mà so sanh với nhau được. Tâm ghiền thì có cái hay ẩu, chơi trước tính sau. Còn việc học thì, khi đả học thì học thât dử. Nhớ những đêm học thì cùng với Tâm Ghiền, lúc đó, bọn tôi thường là Thông mát, vì nó không chịu học. Thông Mát nói “tao di Thủ Đức, tui bây khỏi lo!!!!”
Rồi ngày tháng qua nhanh, sau 72, bọn tôi tan hàng cùng với Mùa Hè Đỏ Lửa, mạnh đúa nào đứa ấy lo!!! Tôi và Tâm lại tiếp tục với nhau ở ĐH, và trời khiến, bọn tôi lại cùng một nghề.... Nhưng tôi còn may mắn hơn Tâm là tôi trong biên chế nhà nước cho đến 85 bỏ nghề và bỏ nước.... Tưởng rằng tôi và Tâm sẽ gặp lại!!! Hai đứa húa hẹn sẻ gặp nhau.
Tháng 10 năm 2006, tôi, Tâm Ghiền và Trần Lâm Sơn chat lần cuối cùng trên mạng.... Những lời lẽ cuối cùng ấy của Tâm Ghiền, tôi lưu lại mãi mãi trong cái disk nhỏ bé.... mà tôi sẽ mang nó theo cho đến cuối đời tôi!!!!Tâm, I love you guy!!!!NHP
ĐỐ VUI …. ĐỂ HỌC
Các bạn Chu Văn An nào đoán được tên của 2 Thầy dưới đây sẽ được thưởng hậu hĩ:
1) Thầy nào mà ngày xưa khi được hỏi “Thầy đi xe gì?” thì Thầy chuyên trả lời đùa là “tôi đi xe Peugeot” cứ như la Thầy làm chủ một chiếc xế hộp nổi tiếng của Pháp. Xe Peugeot của Thầy thực sự là một chiếc xe không có bougie, không cần xăng để chạy. Nó chỉ là một chiếc xe đạp loại đàn ông cũ rích, chỉ có cặp thắng là made by Peugeot mà thôi. Thầy rất quan tâm về sự an toàn của Thầy khi đạp xe nên Thầy thuê thợ gắn cái cặp thắng tân tiến nhất của cái thời bấy giờ. Mỗi khi đến ngã tư đường, nhất là chổ Ngã Sáu là Thầy nhảy xuống xe để dắt bộ qua đường. Thế mà cũng có một lần Thầy bị xe taxi đụng khi đang đạp xe giữa đường, cái tai nạn này làm Thầy gãy một chân. Tôi còn nhớ là Thầy rất lịch sự, bất cứ khi có học trò nào đó chào thầy “Lạy Thầy ạ” là Thầy nhảy tót xuống khỏi xe đạp ngay lập tức để đáp lễ “không dám.” Có đứa tinh nghịch chận Thầy ngay giữa đường đễ chào Thầy, thế mà Thầy cũng xuống xe để đáp lễ. Thầy là một thể hiện điển hìinh của cái sự giáo dục Đông Phương của tụi mình :Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn.
Thầy này tên gì và Thầy dạy tụi mình môn gì?
2) Thầy thứ nhì này ngày xưa tụi mình hay gọi là “Bố” Thầy này đi xế hộp thục sự. Xe của Thầy là một chiếc Volkswagen. Ngày xưa khi dạy tụi mình về môn Vạn Vật, Thầy chuyên môn ví voi những sự sinh sản của thực vật cứ y như là những chuyện sex của loài người vậy. Thầy vẽ hoàn toàn theo trí nhớ hình nhụy hoa cây cỏ rất đẹp không bao giờ phải nhìin vàao sách.
Thầy này tên gì và tại sao Thầy được gọi là “Bố.”
QT
VIẾT CHO ĐOÀN MINH TÂM
Vào tháng 7 năm 2005, khi nhận tin hiền thê của Đoàn Minh Tâm qua đời sau cơn bệnh quái ác.... Tôi nói khẻ, Rồi đây thằng Tâm sẽ khổ đau, tiếc thương người bạn đời không biết đến bao giờ!!!. Sự việc xãy ra y vậy.... Sau cái ngày nhà nó mất, nó như một kẻ mất hồn và rơi vào cái chu kỳ depression cực kỳ thảm hại!!!! Mặc dù nó và tôi chưa có được một diểm phúc hội ngộ sau gần 30 năm xa cách!!. Nhưng qua một vài nét bút qua email, tôi cũng hiểu được những gì mà nó đang nghĩ trong nó!!! Vì rằng trong những năm cuối cùng ở 12B4 CVA, tôi và Tâm là gần gũi nhau nhất cùng với Thông Mát. Nhớ những ngày ở CVA, hầu như chúng tôi gặp và đến với nhau ngày một!!!. Tôi còn nhớ lúc đó Tâm Ghiền có chiếc Bê Xê sập lết, đôi lúc nó đèo cả 3, Tôi và Thông Mát đi uống cà phê, nhưng không đứa nào có tiền cả. Tâm nói, để tao chở tụi bây về quán gần nhà tao (Góc Phan thanh Giản và Bàn cờ) “Tao sẻ mượn tiền con bé Trang em tao, hy vọng có!” Thế rồi cả bọn vào quán kêu cà phê và chờ Tâm Ghiền trở ra với một ít tiền của bé Trang em nó.
Thông Mát nói: “tao kêu vài điếu thuốc lá nghe Phương??, thèm quá!!!! “
Tôi bảo “ừ!!! kêu đại đi Thông!!!”
Khoãng 15 phút sau, Tâm trở ra, lắc đầu và nói, con bé Trang di nhà bạn nó chơi rồi, tao có xin bà già ít tiền, nhưng bà già nói mới cho tiền hôm qua rồi nên không cho nữa!!!.Tâm tiêu nghiễu ngồi xuống châm điếu thuốc rồi mĩm cười nói với tôi: “Ê Phương, mày có uy tín hơn tao khi nói chuyện với bà già tao.... Sau khi uống cà phê xong mày vào năn nĩ, nói rằng cả 3 đứa không có tiền, mà đả lở gọi cà phê rồi, thì thế nào bà cụ cũng lòi ra!”Toi hỏi nó, bà già đang làm gì trong nhà và ông cụ nó có ở nhà không. Vì lẽ, ông cụ Tâm Ghiền rất khó, không thích bọn tôi hút thuốc, cà phê cà pháo!!!!Tâm nói, mày đừng lo, bà cụ đang dưới bếp còn ông cụ tao đi làm chưa về. Tôi nói có vẽ cự nự nó, mầy hại tao vừa thôi nhá Tâm!!! Đây là lần đầu và cũng là lần cuối nha mậy!!!!. Thằng Thông Mát cười ngặt nghẽo trong lúc thả một hơi thuốc dài lên trần!!!!
Bây giờ đến lượt tôi!!!
Vừa đến cửa nhà Tâm, thì Mẹ Tâm vừa bước ra ngoài, hình như bà chuẩn bị đi mua gì khá vội. Tôi nhanh miệng chào bà, “Thưa Bác ạ!, Tâm có nhà không? thưa Bác?”,
Mẹ Tâm nói: “Cậu ấy chắc ngoài quán cà phê đầu ngõ, cậu ra đấy tìm xem sao!.”
Tôi trả lời “dạ vâng, để con ra đó xem”.
Nói vừa xong bà nhanh gót đi!!!!. Thế thì, tôi nói khẻ, bây giờ chắc phải trở ra và giao cho Thông mát xoay sở vậy!!!! Đứng tại ngỏ nhà Tâm Ghiền gần 10 phút để suy tính coi có thể mượn tiền ai đây!!!. Rất may cho tôi, lúc đó em gái Tâm vừa về.
Gặp tôi, bé Trang hỏi: “Anh gặp Anh Tâm em chưa?” “Rồi, Anh gặp rồi” Tôi đáp.
Trang nói, “vào nhà chứ! anh đứng ngoài đấy làm gì”. Tôi trả lời “Tâm có trong nhà đâu mà Anh vô hả Trang!!.”
“Chứ tại sao Anh bảo là gặp Anh Tâm rồi cơ mà....”
Tôi đành nói sự thực với bé Trang, em gái Tâm Ghiền là bọn tôi không có tiền mà đả lở kêu cà phê và đang ngồi "đồng" ngoài quán đầu ngõ!!!!. Trang lắc đâu và chìa tiền cho tôi!!!!. Tôi nói với Trang là ngày mai Anh trả và cãm ơn em đả cứu bọn Anh!!!. Trước khi chạy trở lại quán cà phê, tôi còn căn dặn Trang đừng mét lại bà già!!!!!
Thật sụ mà nói, trong bọn 12b4 CVA bọn tôi, mỗi đúa một vẽ, khó mà so sanh với nhau được. Tâm ghiền thì có cái hay ẩu, chơi trước tính sau. Còn việc học thì, khi đả học thì học thât dử. Nhớ những đêm học thì cùng với Tâm Ghiền, lúc đó, bọn tôi thường là Thông mát, vì nó không chịu học. Thông Mát nói “tao di Thủ Đức, tui bây khỏi lo!!!!”
Rồi ngày tháng qua nhanh, sau 72, bọn tôi tan hàng cùng với Mùa Hè Đỏ Lửa, mạnh đúa nào đứa ấy lo!!! Tôi và Tâm lại tiếp tục với nhau ở ĐH, và trời khiến, bọn tôi lại cùng một nghề.... Nhưng tôi còn may mắn hơn Tâm là tôi trong biên chế nhà nước cho đến 85 bỏ nghề và bỏ nước.... Tưởng rằng tôi và Tâm sẽ gặp lại!!! Hai đứa húa hẹn sẻ gặp nhau.
Tháng 10 năm 2006, tôi, Tâm Ghiền và Trần Lâm Sơn chat lần cuối cùng trên mạng.... Những lời lẽ cuối cùng ấy của Tâm Ghiền, tôi lưu lại mãi mãi trong cái disk nhỏ bé.... mà tôi sẽ mang nó theo cho đến cuối đời tôi!!!!Tâm, I love you guy!!!!NHP
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)