Định hướng văn học 1 E – Kim Định
Ðiều bất lợi thứ hai là hễ đã xác định tức khắc khiến cho triết học chóng lỗi thời, vì sự vật cũng như hoàn cảnh biến đổi như bàn cờ: ván ván khác nhau nên mọi ý hệ dù có công hiệu thì cũng rất hạn hẹp trong không gian với 30, 40 năm. Còn gì đồ sộ bằng ý hệ của Hegel ngự trị cả một thời trên làng triết Tây, thế mà 10 năm sau khi Hegel khuất bóng thì lời chửi nặng nhất là gán cho đối phương theo Hegel, nghĩa là lỗi thời. Cái bản chất của ý hệ làm cứng đọng không thể linh động được như chủ đạo. Tuân tử bình luận các nhà biện giải đồng thời với ông có nói "thậm sát nhi bất huệ, biện nhi vô dụng. Ða sự nhi quả công".
Thậm sát lục lọi cùng khắp bốn góc, không hòn đá nào không lật lên, nhưng không đi vào được trung cung, nên không có huệ nhãn tức là cái nhìn chính trung, thì có biện luận tràng giang đại hải rồi cũng lỗi thời, và sẽ bị đào thải như Mạnh Tử nói về Bổn Thành Quát (VII. 29) "tiểu hữu tài, vị văn quân tử chi đại đạo dã, "小有才﹐未聞君子之大道也 có tài nhỏ xây đắp ý hệ, biện luận đanh thép nhưng chưa vượt tầm lý trí, chưa được nghe đến đại đạo quân tử. Vì đại đạo đó vượt qua tầm ý niệm và lặn sâu trong thẩm cùng lòng người.
Ðạo đức học không được phép đốc ra khoa giảng tập tục, đi xác định những điều này nọ kia khác, nhưng phải là "khoa học khơi nguồn năng lực" (énergétique), làm sao cho nguồn sinh lực đó được vun tưới, được canh tân mỗi ngày "nhật tân kỳ đức" (Dịch). Nếu không đạt tới thâm tâm mà toàn bò ngang trong đợt xác định, thì dẫu tư tưởng có dồi dào chẳng qua cũng là những máy gió xay lời như Pierre Naville khi nói về triết cổ điển ví với "le bon vieux moulin à paroles de la philosophie classique".
Chính vì không đặt trọng tâm ở đợt sâu thẳm nên triết học lý niệm mất định hướng và chẳng bảo được khoa nào; ngược lại khoa học nào bất kỳ cũng coi thường triết lý, còn đời sống xã hội thì phó cho lương tri dẫn được tới đâu biết tới đó. Cho nên văn hóa Tây Âu trở thành cái bao chứa ngàn thứ bệnh như Jung nhận xét: "Our own Western culture sickens with a thousand ills". Commentary on the secret of the golden Flower. Psyché and symbol p.305.
Hay nói như một nhà khoa học kia, đó là thứ la bàn-kim để trong cái tàu làm bằng sắt, thành ra kim bị sắt tầu điều động nên tuy tầu theo kim, nhưng kim cũng theo tầu, thiếu hướng và gây nên cái mà Heidegger kêu là "sự xoay quẩn" (Wirbel). Ðó là mấy điểm tối quan trọng xưa nay chưa ai nhìn ra nên mới gây thành cảnh loạn xạ như nay. Bởi vậy chúng ta phải thẳng thắn nhận định, không nên để mình bị lóa mắt bởi hệ thống, vì tư tưởng hay vì lời nói đẹp. Những cái đó trong triết lý toàn là đồ trang trí. Có quý tới đâu cũng không cứu nổi cái nền móng và cái nóc tượng bằng số 1-9.
Nhân tiện bàn về cách truyền thông tư tưởng có lẽ cũng cần nhắc đến nhận xét cho rằng triết Ðông không biết chuyển đạt tư tưởng. Sự thật thì khác hẳn: người xưa truyền đạt tư tưởng còn hiệu nghiệm hơn người nay cả trăm lần so với mức độ triết cổ điển truyền bá trong các xã hội Tây Âu vì thế chưa một nền triết Tây Âu nào truyền bá rộng được đủ để phổ cập như một tôn giáo kiểu triết Ðông. Triết Ðông cũng có khi gọi là tôn giáo vì lối truyền thông thực thần tài. Những tư tưởng triết lý cao thăm thẳm mà hầu như không hang cùng ngõ hẻm nào lại không biết đến dăm ba câu, chẳng hạn như "nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn". "Tam tài giả thiên địa nhân".
Người nay không nhận ra chỗ tài tình đó, nên đi hạ giá người xưa cho là "tri thực nhi bất tri danh" rồi kết luận "giai bất tri dã". Nói thế là tỏ ra đã hoàn toàn theo lưu tục của thời nay, thời của nền "văn minh nói" nên cho "tri thực nhi bất tri danh" cũng chỉ có giá trị ngang hàng với "tri danh nhi bất tri thực", mà chính ra "tri thực nhi bất tri danh " cao hơn hẳn "tri danh nhi bất tri thực, vì "tri thực nhi bất tri danh" thuộc "tự thành minh giả vị chi tính", còn "tri danh bất tri thực" thì chưa đáng kể là giáo, mặc dầu giáo còn ở dưới tính, theo câu "tự minh thành vị chi giáo" T.D. Tức là biết rồi hiện thực thì gọi là giáo còn "hiện thực rồi hiểu sau là tính". Tri thực nhi bất tri danh đã kể là tính. Còn tri danh nhi bất tri thực đã đáng kể là giáo đâu?
Thứ đến là tỏ ra chưa nhận xét được sự phân biệt quan trọng là triết Ðông có tri danh nhưng là Danh chỉ thị (parole indicative) còn danh biện giải (parole explicative) cũng không phải là không có, chẳng hạn từ Luận ngữ đến Chu Hy ta thấy có 4 đợt tiến trong lối trình bày.
1. Luận ngữ là một lời nói, một khúc của câu chuyện.
2. Ðến Mạnh Tử thì đưa ra cả một câu chuyện dài làm khung.
3. Ðến Tuân Tử thì viết theo lối cảo luận.
4. Cuối cùng đến Chu Hy thì bước vào hệ thống tư tưởng.
Tuy nhiên danh biện giải không được chú trọng nhiều như Tây Âu, vì đã có phần lễ và nhạc. Lễ nhạc là một lối giảng diễn triết lý nhưng không bằng lời mà bằng dáng điệu, bằng hành vi, bằng cử chỉ, bằng hát và vũ. Vì thế mà quan trọng đặt lên danh chỉ thị, bởi đó là một lối văn hóa đi vào chiều sâu (culture intensive) có tầm ảnh hưởng rất êm đềm nhưng thấm nhập. Chỉ cần xem đời sống dân Viễn Ðông được tô tạo bởi nền Ðạo lý học đến đâu thì biết. Từ người làm ruộng, đi chợ, tất cả những người không học cũng sống theo một nền triết lý mà lâu lâu họ cũng nói lên một hai câu cách ngôn.
Ngày nay bầu khí lễ không còn, nên chúng ta cần đến lối "danh biện luận" để lý giải. Ðó cũng là một việc phải theo thời, chứ vị tất đã hiệu quả bằng lối "danh chỉ thị". Cần ý thức như vậy để khỏi quá chuyên chú danh biện giải của triết Tây đến ruồng bỏ danh chỉ thị của triết Ðông. Làm thế là đánh mất một lối văn bi ký kiểu châm ngôn triết lý đã kết đúc tư tưởng đến độ giản ước tối đa mà lại trong sáng (une pensée parvenue à l’expression la plus limpide et la plus concise) trở thành những sấm ngôn giống mũi tên bắn đi cực sâu vào thâm cung lòng người.
Nếu chúng ta cố tìm hiểu để giữ lại một số thì khi đi vào lối danh biện giải theo kiểu Tây phương sẽ hy vọng tránh được cái bệnh đánh mất thực chất (déréalisation) vì nói nhiều mà triết Tây Âu đã mắc phải nên học không hiểu nổi mấy danh từ quan trọng nhất hồi xưa, chẳng hạn Phuséis, Logos, Être như trong suốt 20 thế kỷ của triết học lý niệm, cũng như hiện nay mấy thuật ngữ in-der-welt-sein hoặc Dasein… của Heidegger mà cả một thế triết từ Sartre, Merleau Ponty, G.Marcel, de Waelhens, Paul Ricoeur không hiểu trúng (xem thí dụ quyển Médard Boss: Introduction Psychosomatique, Payot p.39-53). Cho tới nay nghĩa là 25 thế kỷ triết học sử dệt toàn bằng những ngộ nhận đó, vì thế là một lịch sử tang thương bi đát (dramatique như ông Médard Boss nói).
Hiện nay người ta nhận ra giá trị của danh chỉ thị, nên một số tác giả (mà Nietzsche là một dùng lối văn định đề (axiomatique), lối triết ngôn, kiểu thánh phán (oracle); cũng như bên thế giới cộng sản dùng khẩu hiệu. Tất cả đều tỏ ra chân nhận giá trị của danh chỉ thị. Tuy nhiên muốn dùng được danh chỉ thị phải vươn tới đợt chính Sát để có thể khơi nguồn sinh lực thì danh chỉ thị mới có hồn, có linh nghiệm. Chứ như cứ bám lấy đợt xác định mà đòi dùng danh chỉ thị thì đó chỉ là những lời võ đoán, phán quyết vô bằng (affirmations gratuites) hoặc là khẩu hiệu theo nghĩa lời phát ra từ cuống họng, xuyên qua lưỡi, tận cùng ở môi mép. Chung quy lại là "cái máy xay ra lời" như xưa.
Hãy kết luận chương này bằng một hình ảnh. Nghĩ đến triết Tây với phương pháp lý giải phân tích hệ thống tôi thích ví với con đường rộng tráng nhựa trơn tru xe hơi chạy thong thả; thế nhưng các vấn đề bàn tới lại không thiết thực, trục vật, thiếu hướng quy tụ nên chỉ là con đường chạy quanh chân núi. Triết Ðông thì như đã lên tới đỉnh núi nhờ vào cái nhìn trực giác thấu thị, nhưng với lối nói quá đúc kết nên với người nay kể là mới leo bằng đường mòn, nên không còn hợp thời đại xe hơi nữa, vì thế rất ít người muốn ngó tới.
Sứ mạng của triết lý ngày mai là phải mở con đường nhựa theo triền núi để leo tới đỉnh. Muốn được như thế cần học triết Ðông trước hết, đặng có được cái nhìn toàn thể, cái nhìn thống nhất để có đường hướng. Có hướng rồi cái học mới có hành theo sau; nhưng sau đó chúng ta phải học triết Tây, để thêm phong phú, chính xác, minh định, rộng mở. Và lúc đó càng đọc nhiều càng hay vì khi đã có hướng thì có đọc nhiều cũng không còn sợ tâm trạng tán loạn ủ ê, vu vơ như chúng ta dễ thấy chán chường gương cả trong sách lẫn nơi người học.
xem tiếp 2 Định hướng văn học
Thứ Hai, 19 tháng 5, 2008
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét